I. KHÁT QUÁT QUÁ TRÌNH NỘI LUẬT HOÁ CÔNG ƯỚC CHỐNG TRA TẤN CỦA VIỆT NAM
Để triển khai thực hiện Công ước Chống tra tấn, ngày 17/3/2015, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước chống tra tấn (Quyết định số 364/QĐ-TT). Tại mục II.2 của Kế hoạch, Thủ tướng Chính phủ xác định rõ một trong các nhiệm vụ lớn để triển khai Công ước Chống tra tấn là nội luật hóa các quy định của Công ước. Theo đó, các Bộ, ngành của Việt Nam cần thực hiện rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới một số văn bản quy phạm pháp luật nhằm thực hiện Công ước chống tra tấn sau đây:
(1) Hoàn thiện quy định về các tội danh liên quan đến các hành vi tra tấn trong Bộ luật hình sự (sửa đổi) phù hợp với nội dung định nghĩa tra tấn của Công ước;
(2) Hoàn thiện các quy định có liên quan của Bộ luật tố tụng hình sự để đảm bảo tốt hơn quyền con người, đặc biệt là quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam;
(3) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành án hình sự; đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án Luật tạm giữ, tạm giam, Luật tổ chức các cơ quan điều tra hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành;
(4) Nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện các quy định của Bộ luật dân sự, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật Khiếu nại, Luật tố cáo;
(5) Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về đạo đức nghề nghiệp cán bộ, công chức, bảo đảm tôn trọng quyền con người khi thi hành công vụ;
(6) Nghiên cứu, rà soát pháp luật về bạo lực tại nơi làm việc, bạo lực giới, bạo lực gia đình, bạo lực với trẻ em và các đối tượng yếu thế để có điều chỉnh đồng bộ về bảo vệ các nhóm đối tượng này và phù hợp với Điều 16 Công ước chống tra tấn.
Thực hiện xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật hàng năm và Kế hoạch nói trên, đến nay, khuôn khổ pháp luật nhằm thực hiện Công ước Chống tra tấn của Việt Nam đã được hoàn thiện hơn, thể hiện ở những nội dung sau đây:
Thứ nhất, ngoài quy định tại khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013, quyền không bị tra tấn hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người còn được quy định tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực hình sự, hành chính, dân sự…. Chỉ tính từ năm 2015 đến nay, nhiều đạo luật quan trọng liên quan trực tiếp đến phòng, chống tra tấn hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người đã được ban hành mới, sửa đổi, bổ sung, trong đó có: Bộ luật hình sự năm 2015, Bộ luật dân sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Luật trợ giúp pháp lý năm 2017, Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017, Luật tố cáo năm 2018…. Ngoài các quy định ghi nhận quyền, các văn bản quy phạm pháp luật cũng quy định cấm hành vi tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, chẳng hạn như quy định nghiêm cấm tra tấn, bức cung, nhục hình tại Bộ luật tố tụng hình sự (Điều 10), Luật thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 4, Điều 8), Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự (Điều 14)…
Thứ hai, Bộ luật hình sự đã được sửa đổi để phù hợp hơn với quy định của Công ước Chống tra tấn. Mặc dù chưa có quy định riêng về tội tra tấn, nhưng hiện nay, tất cả các hành vi có tính chất tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người theo tinh thần của Công ước đều bị coi là tội phạm. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật của Việt Nam có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với Công ước Chống tra tấn như Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật Tương trợ tư pháp, Luật Luật sư cũng đã cho thấy Việt Nam có một hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền con người nói chung và chống tra tấn nói riêng tương đối đầy đủ, phù hợp với những nguyên tắc và tiêu chuẩn chung của Công ước Chống tra tấn. Về cơ bản có thể nhận xét rằng pháp luật Việt Nam đã có sự tương thích ở mức độ khá cao với Công ước Chống tra tấn.
Thứ ba, pháp luật Việt Nam hiện đã có các quy định nhằm ngăn ngừa hành vi tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người, đặc biệt là trong hoạt động tố tụng hình sự, thi hành án hình sự. Các quy định này bao gồm quy định ghi nhận các quyền của các cá nhân có nguy cơ bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt, tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục, chẳng hạn như người đang bị tạm giữ, tạm giam (Luật thi hành tạm giữ, tạm giam), người đang chấp hành hình phạt tù (Luật thi hành án hình sự)…. Một số biện pháp ngăn ngừa cũng được thể hiện dưới hình thức các quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức thực thi pháp luật, ví dụ như Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật công an nhân dân….
Thứ tư, pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận các quyền được khiếu nại, tố cáo và được bồi thường cho các nạn nhân của hành vi tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người. Các quyền này được ghi nhận trong Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước và một số văn bản quy phạm pháp luật khác như Bộ luật tố tụng hình sự, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam….
Thứ năm, việc bảo vệ quyền con người, quyền không bị tra tấn còn được quy định nhiều văn bản quy phạm pháp luật có liên quan khác như Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, Luật phòng, chống bạo lực gia đình, Luật bình đẳng giới, Luật trợ giúp pháp lý, Luật trẻ em....
1. Quy định về cấm tra tấn và các biện pháp đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người
Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta, từ lý luận và thực tiễn phát triển đất nước những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của vấn đề quyền con người và mối quan hệ giữa con người và chính trị, giữa công dân và Nhà nước, giữa tự do cá nhân và pháp luật quốc gia. Trong mối quan hệ đó, phải khẳng định: cá nhân làm nên xã hội; quyền lực nhà nước bắt nguồn từ công dân và bị giới hạn bởi ý chí của người dân. Tự do, nhân phẩm của mỗi cá nhân phải được xã hội, Nhà nước tôn trọng, bảo vệ.
Hiến pháp năm 1946 lần đầu tiên xác định một nguyên tắc về chống hành vi tùy tiện trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam, theo đó “tư pháp không quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không được ai xâm phạm một cách trái pháp luật” (Điều 11). Mặc dù quy định này không đề cập cụ thể đến vấn đề tra tấn nhưng lại có ý nghĩa quan trọng để bảo vệ người dân trước những vi phạm nhân quyền trong hoạt động tư pháp, bao gồm các hành vi tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục.
Nguyên tắc trên tiếp tục được các bản Hiến pháp sau kế thừa và phát triển thành nguyên tắc hiến định đầy đủ về quyền bất khả xâm phạm thân thể, danh dự và nhân phẩm của công dân mà được áp dụng trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong hoạt động tố tụng (các Điều: 27, 28 Hiến pháp năm 1959; các Điều 69, 70 và 71 Hiến pháp năm 1980; Điều 71 Hiến pháp năm 1992). Cụ thể, Điều 71 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi và bổ sung năm 2001) quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt bếu không có quyết định của tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải theo đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”.
Quy định trên của Hiến pháp năm 1992 tiếp tục được kế thừa và bổ sung, hoàn thiện tại khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013. Theo đó:
“1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm….”
So với quy định tại Điều 71 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 đã có sự thay đổi rất cơ bản như sau:
Thứ nhất, về mặt chủ thể, Hiến pháp năm 2013 bảo vệ tất cả các cá nhân, hay nói cách khác bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể cho con người trong khi Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) chỉ ghi nhận quyền này cho công dân.
Thứ hai, nội dung quyền bất khả xâm phạm, các biện pháp bảo vệ và các hình thức vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của cá nhân theo Hiến pháp năm 2013 đã được quy định khái quát và rõ ràng hơn. Cụ thể như sau:
- So với Hiến pháp năm 1992 thì Hiến pháp năm 2013 có quy định bổ sung hai hành vi “tra tấn, bạo lực” là những hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực tư pháp hình sự nhằm bảo đảm quyền con người. Theo quy định này của Hiến pháp năm 2013, các hành vi cụ thể như lăng mạ, đe dọa, đánh đập đối với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hay người đang chấp hành hình phạt tù gây cho họ đau đớn, đau khổ nghiêm trọng về thể xác, tinh thần là các hành vi vi phạm quyền con người. Các hành vi khác như: bắt nhịn ăn, nhịn uống, ăn cơm nhạt, không cho ngủ, giam trong buồng tối, xét hỏi suốt ngày đêm gây cho người bị giam giữ căng thẳng tột độ, bắt đứng hoặc quỳ khi hỏi cung cũng đều là hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, vi phạm quyền con người.
- Quy định này của Hiến pháp năm 2013 đã bảo vệ mọi cá nhân trong mọi điều kiện, hoàn cảnh khác nhau (ví dụ, bao gồm cả công dân Việt Nam, người nước ngoài đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam hay người đang bị giam, giữ…). Điều đó cũng có nghĩa trách nhiệm của Nhà nước là không được xâm phạm quyền này của cá nhân hay đặt ra giới hạn đối với quyền này, kể cả trong tình trạng khẩn cấp. Nhà nước có trách nhiệm phải ngăn chặn, xử lý mọi hành vi xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của cá nhân.
Ngoài quy định của Hiến pháp, quyền không bị tra tấn, bức cung, nhục hình và quy cấm tra tấn, bức cung, nhục hình còn được ghi nhận ở nhiều văn bản luật, trong đó có:
- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: quy định rõ cấm tra tấn, bức cung, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người tại Điều 10. Theo đó, mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể; nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người.
- Luật thi hành án hình sự năm 2010: quy định các nguyên tắc: tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; bảo đảm nhân đạo xã hội chủ nghĩa; tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án (Điều 4); cấm nhận hối lộ, sách nhiễu trong thi hành án hình sự; cản trở người chấp hành án thực hiện quyền được đề nghị miễn, giảm thời hạn chấp hành án (Điều 9)...
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015: quy định về việc cấm tra tấn, truy bức, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam (các điều 4 và 8).
- Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015: quy định nghiêm cấm bức cung, dùng nhục hình và các hình thức tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, hạ nhục con người hay bất kỳ hình thức nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân (Điều 14).
2. Các quy định của Bộ luật hình sự nhằm trừng phạt hành vi tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người
Bộ luật Hình sự năm 1999 chưa quy định tra tấn như mô tả tại Công ước Công ước Chống tra tấn là một tội danh độc lập cũng như không quy định khái niệm "tra tấn". Tuy nhiên, không phải đợi đến khi Việt Nam phê chuẩn Công ước Chống tra tấn thì chúng ta mới có các công cụ pháp lý hình sự để phòng, chống và trừng trị hành vi tra tấn. Nhằm cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp, Bộ luật Hình sự qua các thời kỳ quy định nhiều chế định pháp lý nhằm bảo đảm trừng trị các hành vi liên quan đến tra tấn, bạo lực, bức cung, nhục hình hay các hành vi khác xâm phạm thân thể, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm con người.
Rà soát BLHS 1999 cho thấy, hành vi tra tấn tuỳ từng trường hợp cụ thể có thể xử lý về tội giết người (Điều 93), tội đe doạ giết người (Điều 103), tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104), tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107), tội làm nhục người khác (Điều 121), tội bắt giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 123), tội dùng nhục hình (Điều 298), tội bức cung (Điều 299), tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật (Điều 303), tội ngược đãi tù binh, hàng binh (Điều 340),...Trong số các tội phạm nêu trên, có 02 điều luật có cấu thành gần với tra tấn theo yêu cầu của Công ước, đó là tội dùng nhục hình (Điều 298), tội bức cung (Điều 299). Hai tội này được quy định tại Chương XXII của BLHS 1999 về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp- là các tội xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Ngoài ra để bảo đảm trừng trị hành vi tra tấn, BLHS năm 1999 cũng quy định các vấn đề liên quan đến quyền tài phán, theo đó: i) BLHS được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam; ii) công dân Việt Nam phạm tội ở nước ngoài có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam; iii) người nước ngoài phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo BLHS Việt Nam trong trường hợp được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Đánh giá các quy định của BLHS 1999 với các quy định của UNCAT về hình sự hóa cho thấy, về cơ bản, pháp luật hình sự của Việt Nam, mặc dù không quy định tội tra tấn nhưng bằng các quy định khác nhau, đã bảo đảm xử lý các hành vi tra tấn theo khái niệm ghi nhận tại UNCAT. Bộ luật Hình sự năm 2015 tiếp tục kế thừa quy định của BLHS năm 1999 về các tội danh tương ứng liên quan đến tội phạm tra tấn, đồng thời đã có nhiều sự sửa đổi, bổ sung để phù hợp hơn với tinh thần của Công ước Chống tra tấn.
- Theo quy định tại Điều 373 của Bộ luật hình sự năm 2015, người nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án, thi hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc sử dụng nhục hình hoặc bất kỳ hình thức nào đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác gây đau đớn về thể xác và tinh thần cho người bị tra tấn thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội dùng nhục hình.
Biểu hiện của hành vi phạm tội có thể là dùng vũ lực gây đau đớn cho nạn nhân như đấm, đá, đánh bằng tay, chân hoặc dùng các vật khác như roi, thanh sắt, khúc cây,… để đánh vào cơ thể nạn nhân; hoặc hình thức khác như cùm chân tay, bắt đứng, ngồi, nằm ở những tư thế khó chịu, bắt nhịn ăn, nhịn uống, cho ăn cơm thừa, canh cặn, không cho ngủ, hỏi cung suốt ngày đêm, bắt phơi nắng, bắt tắm nước lạnh vào mùa đông, bắt lao động nặng nhọc,… Hành vi dùng nhục hình gây đau đớn về thể xác và/hoặc tinh thần cho người bị tra tấn, tuy nhiên, hậu quả gây ra không phải là yếu tố bắt buộc cấu thành tội phạm này. Việc gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng cho người bị nhục hình, tùy từng trường hợp cụ thể là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại khoản 2, 3 hoặc 4 của Điều luật.
Người dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm người khác là người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Hành vi phạm tội được thực hiện với lỗi cố ý, tức là người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc chỉ thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Mục đích, động cơ phạm tội trong mỗi trường hợp là khác nhau nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc.
- Hình phạt đối với tội nhục hình theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 rất nghiêm khắc từ 06 tháng tù đến 20 năm hoặc tù chung thân tùy trường hợp cụ thể, như sau:
(i) Khoản 1 Điều luật quy định khung hình phạt cơ bản với mức phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
(ii) Khoản 2 Điều luật quy định mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp: phạm tội 02 lần trở lên; đối với 02 người trở lên; dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; gây thương tích hoặc gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 60%.
(iii) Khoản 3 Điều luật quy định mức phạt tù từ 07 năm đến 12 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp: gây thương tích hoặc gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; làm người bị nhục hình tự sát.
(iv) Khoản 4 Điều luật quy định khung hình phạt cao nhất với mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân nếu hành vi phạm tội làm người bị nhục hình chết.
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Để bảo đảm phù hợp với yêu cầu của Công ước Chống tra tấn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, so với quy định của BLHS 1999, Điều 373 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có những nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã mở rộng phạm vi chủ thể của tội dùng nhục hình so với Bộ luật hình sự năm 1999, ngoài những người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án thì còn bao gồm cả người thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (các biện pháp tư pháp) cũng là đối tượng phạm tội dùng nhục hình.
Thứ hai, trong cấu thành cơ bản của tội dùng nhục hình đã bổ sung hành vi cấu thành tội phạm “đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào”, nội dung này cũng cho thấy sự tương thích gần hơn giữa pháp luật hình sự Việt Nam với quy định của Công ước Chống tra tấn.
Thứ ba, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của tội dùng nhục hình tại các khoản 2, 3, 4 Điều 373, thay thế cho các tình tiết định tính trong Bộ luật hình sự năm 1999 là “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”.
Thứ tư, về hình phạt, Bộ luật hình sự năm 2015 bổ sung 01 khung hình phạt tại khoản 4 Điều 373 với mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân trong trường hợp hành vi phạm tội làm người bị nhục hình chết. Như vậy, so với quy định tại Điều 298 BLHS năm 1999, mức hình phạt cao nhất đối với tội dùng nhục hình đã thay đổi đáng kể (từ 10 năm tù lên 20 năm tù hoặc tù chung thân). Quy định này thể hiện chính sách xử lý nghiêm khắc hơn đối với người thực hiện hành vi dùng nhục hình trong hoạt động tư pháp.
b) Tội bức cung (Điều 374)
- Tội bức cung là một tội danh điển hình của Bộ luật hình sự năm 2015 gần với hành vi tra tấn theo quy định của Công ước Chống tra tấn. Theo quy định tại Điều 374 của Bộ luật hình sự năm 2015, người nào trong hoạt động tố tụng mà sử dụng các thủ đoạn trái pháp luật để buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai ra thông tin vụ án, vụ việc thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bức cung.
Hành vi bức cung được biểu hiện thông qua việc sử dụng các thủ đoạn trái pháp luật- là các phương pháp, cách thức bị pháp luật cấm hoặc không có quy định nào cho phép người có thẩm quyền được sử dụng trong hoạt động tố tụng (lấy lời khai, hỏi cung,...) như dùng vũ lực, nhục hình, đe dọa sẽ xử nặng hơn, đe dọa sẽ giam lâu, hỏi cung liên tục vào ban đêm, đe dọa xâm hại người thân thích,... để buộc nạn nhân phải cung cấp thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc.
Cũng tương tự như tội dùng nhục hình, chủ thể thực hiện hành vi phạm tội bức cung là chủ thể đặc biệt- người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,... và thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Mục đích của người phạm tội là để buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung do đau đớn, lo sợ mà phải khai ra hoặc cung cấp thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc.
- Hình phạt áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội bức cung theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 cũng rất nghiêm khắc từ 06 tháng tù đến 20 năm hoặc tù chung thân tùy trường hợp cụ thể, như sau:
(i) Khoản 1Điều luật quy định khung hình phạt cơ bản với mức phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
(ii) Khoản 2 Điều luật quy định mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp tăng nặng: phạm tội 02 lần trở lên; đối với 02 người trở lên; đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung; dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; dẫn đến làm sai lệch kết quả khỏi tố, điều tra, truy tố, xét xử; buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai sai sự thật.
(iii) Khoản 3 Điều luật quy định mức phạt tù từ 07 năm đến 12 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp: làm người bị bức cung tự sát; dẫn đến bỏ lọt tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng hoặc bỏ lọt người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.
(iv) Khoản 4 Điều luật quy định khung hình phạt cao nhất với mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân trong phạm tội thuộc một trong các trường hợp: làm người bị bức cung chết; dẫn đến làm oan người vô tội; dẫn đến bỏ lọt tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề từ 01 năm đến 05 năm.
Để bảo đảm phù hợp với yêu cầu của Công ước Chống tra tấn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, so với quy định của BLHS 1999, Điều 374 của BLHS năm 2015 có những nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung cấu thành cơ bản của tội bức cung như sau:
(i) Bộ luật hình sự năm 2015 sử dụng thuật ngữ “trong hoạt động tố tụng” thay thế cho thuật ngữ “tiến hành điều tra, truy tố, xét xử” trong Bộ luật Hình sự năm 1999. Theo quy định này, phạm vi chủ thể thực hiện tội phạm được mở rộng hơn, qua đó bảo đảm phù hợp với thực tiễn và quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và pháp luật có liên quan.
(ii) Bộ luật Hình sự năm 2015 sử dụng thuật ngữ “người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung” thay thế cho thuật ngữ “người bị thẩm vấn”, để bảo đảm phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và pháp luật có liên quan.
(iii) Theo quy định Điều 299 Bộ luật Hình sự năm 1999, hành vi bức cung chỉ cấu thành tội phạm khi ép buộc người bị thẩm vấn khai sai sự thật và gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, Điều 374 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi cơ bản quy định này theo hướng chỉ cần thực hiện hành vi ép buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai ra thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc thì đã cấu thành tội bức cung. Đồng thời, tình tiết “ép buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai sai sự thật” được quy định là một tình tiết định khung tăng nặng trác nhiệm hình sự tại điểm g khoản 2 Điều 374. Đây là điểm mới rất quan trọng cần được quán triệt nắm vững trong nhận thức nhằm đảm bảo quyền con người và hạn chế việc bức cung của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Thứ hai, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định hành vi “dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung” là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự của tội bức cung tại điểm d khoản 2 Điều 374. Đây cũng là hành vi được mô tả trong cấu thành cơ bản của tội dùng nhục hình, do đó, cần xác định mục đích của hành vi trên để phân biệt trường hợp phạm tội “dùng nhục hình” với trường hợp phạm tội “bức cung” mà dùng nhục hình.
Thứ ba, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể, rõ ràng các trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự của tội bức cung tại các khoản 2, 3, 4 của Điều 374, thay thế cho các quy định mang tính định tính trong Bộ luật hình sự năm1999 như “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”.
Thứ tư, cũng tương tự như quy định tại Điều 373 về tội dùng nhục hình, Điều 374 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung cơ bản hình phạt đối với người thực hiện hành vi bức cung, theo hướng nâng mức hình phạt cao nhất từ 10 năm tù (tại khoản 3 Điều 299 BLHS năm 1999) lên thành từ 12 năm đến 20 năm tù hoặc tù chung thân (khoản 4 Điều374) để bảo đảm chính sách xử lý nghiêm minh đối với loại tội phạm này.
2.2. Các tội danh liên quan gián tiếp đến hành vi tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người theo tinh thần Công ước Chống tra tấn
a) Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 377)
- Điều 377 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật- cũng là một tội danh liên quan tới tra tấn trong hoạt động tư pháp. Điều luật quy định cụ thể các nhóm hành vi cấu thành tội phạm bao gồm: i) không ra quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của luật; ii) ra lệnh, quyết định bắt, giữ, giam người không có căn cứ theo quy định của luật; iii) không chấp hành quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của luật; iv) thực hiện việc bắt, giữ, giam người không có lệnh, quyết định theo quy định của luật hoặc tuy có lệnh, quyết định nhưng chưa có hiệu lực thi hành; v) không ra lệnh, quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời hạn tạm giữ, tạm giam dẫn đến người bị tạm giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn.
Chủ thể của tội phạm này là người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thực hiện một trong các hành vi nêu trên, xâm phạm quyền tự do thân thể của người khác, đồng thời xâm phạm tính đúng đắn của hoạt động tố tụng.
- Hình phạt áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội 06 tháng tù đến 12 năm tùy trường hợp cụ thể và có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- So với quy định của BLHS năm 1999, Điều 377 BLHS năm 2015 về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung như sau:
+ Sửa đổi cấu thành tội phạm cơ bản, theo hướng ngoài hành vi không ra quyết định trả tự do và không chấp hành quyết định trả tự do cho người được trả tự do như quy định của BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 bổ sung các nhóm hành vi mới như đã nêu ở trên.
+ Cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” tại khoản 2 của Điều luật bằng các tình tiết: (1) làm người bị giam, giữ trái pháp luật bị tổn hại về sức khoẻ với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; (2) làm người bị giam, giữ hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn. Đồng thời, bổ sung các tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2, gồm: (1) giam, giữ trái pháp luật từ 02 người đến 05 người; (2) đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
+ Nâng mức hình phạt tại khoản 3 của Điều luật lên thành từ 05 năm đến 12 năm (trước đây là từ 05 đến 10 năm) để bảo đảm xử lý nghiêm khắc hơn đối với tội phạm này; cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” bằng các tình tiết: (1) làm người bị giam, giữ trái pháp luật tổn hại về sức khoẻ với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc chết; (2) làm người bị giam, giữ tự sát; (3) làm gia đình người bị giam, giữ ly tán.
b) Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu (Điều 384)
- Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu là một trong số nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp có liên quan đến hành vi tra tấn, theo đó, Điều 384 của Bộ luật quy định người nào mua chuộc hoặc cưỡng ép người làm chứng, người bị hại, đương sự trong các vụ án hình sự, hành chính, dân sự để những người này khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc không khai báo, không cung cấp tài liệu; mua chuộc, cưỡng ép người giám định, người định giá tài sản kết luận gian dối hoặc người phiên dịch, người dịch thuật dịch xuyên tạc thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Trường hợp người phạm tội dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác để cưỡng ép người khác khai báo, cung cấp tài liệu là tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều luật.
Hậu quả do hành vi phạm tội gây ra có thể làm việc giải quyết vụ án, vụ việc bị sai lệch hoặc gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án,... Tuy nhiên, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm mà tùy từng trường hợp cụ thể có thể được xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là người từ đủ 16 tuổi trở lên đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Trường hợp là người có chức vụ, quyền hạn mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn để mua chuộc, cưỡng ép khai báo, cung cấp tài liệu thì là tình tiết tăng nặng định khung tại khoản 2 Điều luật. Hành vi được thực hiện với lỗi cố ý.
- Hình phạt áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội là cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng tù đến 07 năm tùy trường hợp cụ thể.
So với BLHS 1999, BLHS 2015 đã sửa đổi tình tiết định tội không chỉ là cưỡng ép, mua chuộc để khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, mà còn cưỡng ép, mua chuộc để các đối tượng không khai báo, không cung cấp tài liệu phục vụ cho việc giải quyết vụ án, vụ việc. Đồng thời, Bộ luật năm 2015 đã mở rộng phạm vi người bị mua chuộc, bị cưỡng ép khai báo, cung cấp tài liệu bao gồm: người làm chứng, người bị hại, đương sự trong các vụ án hình sự, hành chính, dân sự, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật.
c) Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157)
- Điều 157 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật. Đây là hành vi xâm phạm quyền tự do về thân thể, tự do đi lại của người khác đã được Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ, theo đó, “mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,danh dự và nhân phẩm;...không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang”.
Điều luật quy định 03 hành vi cụ thể; chủ thể của tội phạm có thể thực hiện một trong ba hành vi hoặc hai trong ba hành vi hoặc cả ba hành vi này: bắt người trái pháp luật; giữ người trái pháp luật hoặc/và giam người trái pháp luật. Tính chất trái pháp luật của các này hành vi nêu trên được hiểu là việc bắt, giữ, giam người không đúng về thẩm quyền, không có căn cứ,... Để xác định hành vi bắt, giữ, giam người có trái pháp luật hay không trước hết phải so sánh, đối chiếu với pháp luật hiện hành về các trường hợp bắt, giữ, giam người hợp pháp nêu trên; nếu hành vi bắt, giữ, giam người không đủ căn cứ, không đúng thẩm quyền, không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật nêu trên thì đều là trái pháp luật.
Đồng thời, để bảo đảm xử lý đúng đắn, chính xác hành vi phạm tội, giải quyết những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn xử lý tội phạm, khoản 1 Điều luật bổ sung quy định mới về việc loại trừ các hành vi bắt, giữ, giam người không thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều luật này, cụ thể là các trường hợp: i) lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện một trong các hành vi quy định tại Điều 377 BLHS năm 2015 (như đã nêu tại điểm a ở trên); ii) dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để chiếm đoạt người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 153 BLHS năm 2015 về tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi.
Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái phép là người nào từ đủ 16 tuổi trở lên đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự[18]. Người thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, mặc dù biết hành vi bắt, giữ, giam người khác của mình là trái pháp luật nhưng người phạm tội vẫn thực hiện.
- Hình phạt áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 12 năm tùy từng trường hợp cụ thể. Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; đối với người đang thi hành công vụ; phạm tội 02 lần trở lên; đối với 02 người trở lên; đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; làm cho người bị bắt, giữ, giam hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn; gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, giữ, giam mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
Khung hình phạt cao nhất với mức phạt tù từ 05 đến 12 năm được áp dụng đối với một trong các trường hợp: làm người bị bắt, giữ, giam chết hoặc tự sát; tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục nhân phẩm của người bị bắt, giữ, giam; gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, giữ, giam mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
Ngoài các hình phạt chính nêu trên, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 đến 05 năm.
So với quy định của BLHS năm 1999 về tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 123), điểm mới của BLHS năm 2015 tại Điều luật này tập trung vào một số nội dung: i) bổ sung các trường hợp loại trừ việc xử lý hình sự theo quy định tại Điều luật này để bảo đảm áp dụng đúng, thống nhất pháp luật; ii) bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm tại khoản 2, khoản 3 và cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” tại khoản 3 bằng các hậu quả cụ thể. Đặc biệt, Bộ luật đã bổ sung tình tiết “tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục phẩm giá nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 157 để bảo đảm phù hợp hơn với Công ước Chống tra tấn. Đồng thời, chính sách xử lý đối với người thực hiện hành vi cũng theo hướng tăng nặng hơn.
d) Ngoài các tội danh nêu trên, BLHS năm 2015 còn nhiều tội danh liên quan đến tra tấn, cụ thể là:
- Một số tội danh thuộc Chương các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu như tội làm nhục đồng đội (Điều 397 BLHS) và tội ngược đãi tù binh, hàng binh (Điều 420).
- Để có thể xử lý được các chủ thể khác thực hiện hành vi tra tấn, ngoài người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, các tội danh liên quan cũng được sửa đổi, bổ sung theo hướng bổ sung một số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để phạm tội (tội đe dọa giết người (Điều 133), tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 134), tội làm nhục người khác (Điều 155), tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157),tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu (Điều 384)) hoặc tình tiết “tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục phẩm giá nạn nhân” tại một số quy định về tội phạm cụ thể.
Để bảo đảm xử lý rộng nhất tội phạm tra tấn, quyền tài phán của tòa án đã được Bộ luật hình sự năm 2015 quy định cụ thể và phù hợpvới tinh thần của pháp luật quốc tế về phòng, chống tra tấn. Cụ thể như sau:
- Đối với hành vi tra tấn được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam
BLHS được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội, trong đó có các hành vi có tính chất tra tấn theo BLHS xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam không kể là các hành vi phạm tội đó do công dân Việt Nam hay người nước ngoài thực hiện. Quy định này cũng được áp dụng đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam (khoản 1 Điều 5)
Đối với người nước ngoài thực hiện hành vi phạm tội mang tính chất tra tấn trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao (khoản 2 Điều 5). Đây là nội dung mới của Bộ luật hình sự năm 2015 so với Bộ luật năm 1999.
- Đối với hành vi tra tấn được thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam
Công dân Việt Nam hoặc người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam có hành vi phạm tội nói chung và hành vi có tính chất tra tấn nói riêng ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Bộ luật này quy định là tội phạm, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật hình sự (khoản 1 Điều 6).
Người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Tòa án nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quyền xét xử về hành vi phạm tội đó (khoản 2 Điều 6). So với quy định của Bộ luật hình sự 1999, Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam.
Đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển không mang quốc tịch Việt Nam đang ở tại biển cả hoặc tại giới hạn vùng trời nằm ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định (khoản 3 Điều 6). Đây cũng là nội dung mới bổ sung của Bộ luật hình sự năm 2015.
Như vậy, có thể thấy, các quy định liên quan của BLHS 2015 được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở bảo đảm nội luật hoá theo yêu cầu của UNCAT về chống tra tấn, bảo đảm các quyền, tự do cơ bản của con người thông qua các chế định về quyền tài phán và các tội phạm liên quan đến tra tấn.
1. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
1.1. Nguyên tắc trong tố tụng hình sự
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tố tụng hình sự được tiến hành theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội (Điều 5 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo, kiến nghị khởi tố, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng cũng như bảo đảm mọi hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện theo quy định của pháp luật, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có một chương riêng với 27 điều quy định các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, trong đó có:
- Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân (Điều 8). Cụ thể: khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết.
- Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 10), theo đó, mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người.
- Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân (Điều 11). Theo đó, mọi người có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân đều bị xử lý theo pháp luật.
- Nguyên tắc suy đoán vô tội: khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.” Phù hợp với quy định của Hiến pháp, Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự quy định người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự năm quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự: khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định, người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Bên cạnh đó, khoản 7 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 cũng quy định, quyền bào chữa của bị can, bị cáo được bảo đảm. Để cụ thể hóa các quy định nói trên của Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự quy định:
(i) người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa;
(ii) Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họtheo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án (Điều 64). Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định cụ thể về nguồn chứng cứ gồm: vật chứng; lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; kết luận giám định; biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác (Điều 64). Đồng thời, quy định cụ thể về thu thập chứng cứ (Điều 65).
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 kế thừa quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về chứng cứ và bổ sung các nguồn thu thập, xác định chứng cứ gồm: dữ liệu điện tử; kết luận định giá tài sản; biên bản trong hoạt động khởi tố, truy tố, thi hành án; kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác. Đồng thời, bổ sung quy định những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự năm quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự (Điều 87). Ngoài ra, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã mở rộng diện chủ thể có thể đưa ra chứng cứ. Theo đó, những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án (khoản 3 Điều 88).
Trong tất cả các giai đoạn tố tụng, mọi chứng cứ đều phải được đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực. Do đó, nếu thông tin, tài liệu được thu thập không đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì sẽ không có giá trị chứng minh trong quá trình tố tụng. Những người tiến hành tố tụng phải xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm. Như vậy, có thể thấy khi truy cứu trách nhiệm hình sự bất kỳ tội phạm nào thì việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong các giai đoạn tố tụng đều được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, không có sự phân biệt về tính chất, mức độ của nghiêm trọng của tội phạm hay người phạm tội. Nếu việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ không đáp ứng được các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự sẽ không được sử dụng trong bất kì giai đoạn tố tụng nào.
1.3. Bảo vệ người làm chứng, người bị hại, người tố giác
Điều 13 Công ước Chống tra tấn quy định “Mỗi quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng bất kỳ cá nhân nào cho rằng họ bị tra tấn trên lãnh thổ thuộc quyền tài phán của mình đều có quyền khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền của nước đó, và và được những cơ quan này xem xét một cách khẩn trương và khách quan. Quốc gia đó cũng phải thực hiện các biện pháp để bảo đảm rằng người khiếu nại và nhân chứng được bảo vệ tránh sự ngược đãi hay hăm doạ vì như là hậu quả của việc khiếu nại hoặc cung cấp bằng chứng”.
Để đảm bảo phù hợp với quy định này, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể quyền được bảo vệ của người làm chứng, người bị hại và dành hẳn chương XXXIV để quy định về việc bảo bảo vệ người làm chứng, người bị hại, người tố giác tội phạm và người tham gia tố tụng khác.
Theo đó, trong quá trình tham gia tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định cụ thể người làm chứng, bị hại có quyền yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa (điểm l khoản 2 Điều 62, điểm b khoản 3 Điều 66).
Ngoài ra, bên cạnh người làm chứng, người bị hại, người tố giác tội phạm thì người thân thích của họ cũng được quyền được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, được quyền bồi thường thiệt hại, khôi phục danh dự, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp trong khi tham gia quá trình tố tụng hình sự (Điều 484).
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về một số biện pháp để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động tố tụng hình sự cũng như phòng, chống tra tấn. Chẳng hạn như:
(i ) quy định ghi âm, ghi hình có âm thanh trong hỏi cung bị can (Điều 183) và có thể ghi âm, ghi hình có âm thanh khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (Điều 146);
(ii) quy định về lấy lời khai (các điều 187, 188, 442), đối chất (Điều 189), xét xử (Điều 258); quy định về quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội (các điều 58, 59, 60, 61, 435);
(iii) quy định người bào chữa có quyền tham gia từ thời điểm người bị bắt, có mặt trong các hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, đề nghị tiến hành các hoạt động tố tụng theo luật định (các điều 73, 80)[19].
So với Luật Thi hành án hình sự năm 2010, Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã bổ sung những quy định cụ thể liên quan đến phòng, chống tra tấn. Nếu như Luật Thi hành án hình sự năm 2010 không có quy định trực tiếp về việc nghiêm cấm hành vi bức cung, dùng nhục hình, thì tại khoản 8 Điều 10 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định một trong những hành vi bị cấm trong thi hành án hình sự đó là “Tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục người chấp hành án, biện pháp tư pháp”. Như vậy, quy định này đã thể hiện ý chí của nhà làm luật trong việc khẳng định chủ trương, chính sách phòng, chống tra tấn của Nhà nước Việt Nam.
2.1. Về nguyên tắc trong thi hành án hình sự
Luật Thi hành án hình sự năm 2019 kế thừa các quy định của luật năm 2010 quy định cụ thể về nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong thi hành án hình sự, quy định về chế độ giam giữ, sinh hoạt, học tập… của người đang chấp hành án phạt tù, về khiếu nại, tố cáo trong thi hành án hình sự. Cụ thể như sau:
Điều 4 Luật thi hành án hình sự quy định 08 nguyên tắc thi hành án hình sự, trong đó có nguyên tắc tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án; thi hành án đối với người dưới 18 tuổi chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội; kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo trong việc thi hành án; áp dụng biện pháp giáo dục cải tạo phải trên cơ sở tính chất và mức độ phạm tội, độ tuổi, giới tính, trình độ văn hoá và các đặc điểm nhân thân khác của người chấp hành án.
2.2. Về những hành vi bị cấm trong thi hành án hình sự
Điều 10 quy định cụ thể các loại hành vi bị cấm trong thi hành án hình sự, hai nhóm như sau: (i) các hành vi nghiêm cấm đối với người phải chấp hành án và những người có liên quan; và (ii) các hành vi bị nghiêm cấm đối với những người có thẩm quyền trong thi hành án hình sự. Trong đó, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho người đang chấp hành án và phòng, chống tra tấn, người có thẩm quyền trong thi hành án hình sự bị nghiêm cấm:
- Không ra quyết định thi hành án hình sự; không thi hành quyết định trả tự do theo quy định của pháp luật và quyết định khác của cơ quan, người có thẩm quyền trong thi hành án hình sự;
- Đưa, nhận, môi giới hối lộ, sách nhiễu trong thi hành án hình sự;
- Không đề nghị cho người đủ điều kiện được miễn, giảm, hoãn, tạm đình chỉ, tha tù trước thời hạn có điều kiện, rút ngắn thời gian thử thách; không đề nghị chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp tư pháp, hoãn, đình chỉ thi hành biện pháp tư pháp;
- Kỳ thị, phân biệt đối xử hoặc xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người, pháp nhân thương mại chấp hành án;
- Cấp hoặc từ chối cấp trái quy định của pháp luật quyết định, giấy chứng nhận, xác nhận hoặc giấy tờ khác về thi hành án hình sự;
- Làm sai lệch hồ sơ, sổ sách về thi hành án hình sự.
2.3. Về quyền và nghĩa vụ của phạm nhân
Thể thể hóa Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền con người, quyền công dân, Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã bổ sung các nhóm quyền cho phạm nhân như: được đề nghị xét đặc xá, bồi thường thiệt hại, hưởng chế độ, chính sách về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. Trong đó, phạm nhân được tự mình hoặc thông qua người đại diện để thực hiện giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, phạm nhân được tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, hưởng chế độ, chính sách về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật… cụ thể, tại Điều 27 của Luật quy định phạm nhân có các quyền và nghĩa vụ như sau:
* Về quyền:
a) Được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tôn trọng danh dự, nhân phẩm; được phổ biến quyền và nghĩa vụ của mình, nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân;
b) Được bảo đảm chế độ ăn, ở, mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân, chăm sóc y tế theo quy định; gửi, nhận thư, nhận quà, tiền; đọc sách, báo, nghe đài, xem truyền hình phù hợp với điều kiện của nơi chấp hành án;
c) Được tham gia hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ;
d) Được lao động, học tập, học nghề;
đ) Được gặp, liên lạc với thân nhân, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân; đối với phạm nhân là người nước ngoài được thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự;
e) Được tự mình hoặc thông qua người đại diện để thực hiện giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật;
g) Được bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo; được đề nghị xét đặc xá, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật;
h) Được tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, hưởng chế độ, chính sách về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật;
i) Được sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật;
k) Được khen thưởng khi có thành tích trong quá trình chấp hành án.
* Về nghĩa vụ:
a) Chấp hành bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, quyết định của cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án hình sự trong quá trình thi hành án hình sự và các quyết định khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
b) Chấp hành nội quy của cơ sở giam giữ phạm nhân, các tiêu chuẩn thi đua chấp hành án;
c) Chấp hành yêu cầu, mệnh lệnh, hướng dẫn của cán bộ cơ sở giam giữ phạm nhân;
d) Lao động, học tập, học nghề theo quy định;
đ) Phạm nhân làm hư hỏng, làm mất hoặc hủy hoại tài sản của người khác thì phải bồi thường.
Khoản 3 Điều 27 quy định: “Phạm nhân có quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này”.
Những quy định này phù hợp với Hiến pháp, vừa bảo đảm tính khả thi của Luật, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vừa bảo đảm đạt được mục đích của hình phạt là giáo dục, cải tạo người chấp hành án. Đây là điểm hoàn toàn mới trong Luật Thi hành án hình sự 2019.
2.4. Về việc tiếp nhận người chấp hành án phạt tù
Điều 28 của Luật thi hành án hình sự năm 2019 quy định: Khi có đầy đủ hồ sơ theo quy định, trại giam, trại tạm giam… phải tiếp nhận người chấp hành án phạt tù. Khi tiếp nhận, các cơ quan này phải có trách nhiệm kiểm tra thông tin, khám sức khỏe cho người chấp hành hình phạt tù. Phải kiểm tra cơ thể của người chấp hành hình phạt tù để xử lý đồ vật mang theo trước khi đưa vào buồng giam. Đồng thời Luật Thi hành án hình sự 2019 đã bổ sung nghĩa vụ của trại giam, trại tạm giam… trong việc giải thích quyền, nghĩa vụ của phạm nhân; phổ biến nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân.
2.5. Về chế độ đối với phạm nhân
Về chế độ giam giữ, Luật thi hành án hình sự quy định cụ thể về việc tổ chức giam giữ phạm nhân như sau: (i) Khu giam giữ đối với phạm nhân có mức án phạt tù trên 15 năm, tù chung thân, phạm nhân thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm; (ii) Khu giam giữ đối với phạm nhân có mức án phạt tù từ 15 năm trở xuống; phạm nhân có mức án phạt tù trên 15 năm đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và thời hạn chấp hành án còn lại dưới 15 năm; phạm nhân thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, đã chấp hành một phần hai thời hạn chấp hành án phạt tù và đã được giảm thời hạn chấp hành án;(khoản 1 Điều 30).
Trước đây,tại khoản 2 Điều 27 của Luật Thi hành án hình sự 2010 quy định có 06 đối tượng được giam giữ riêng, gồm: Phạm nhân nữ; phạm nhân là người chưa thành niên; phạm nhân là người nước ngoài; phạm nhân là người có bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm; phạm nhân có dấu hiệu bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình trong thời gian chờ quyết định của Tòa án; phạm nhân thường xuyên vi phạm nội quy, quy chế trại giam. Hiện nay, Luật mới đã bổ sung thêm 02 đối tượng là phạm nhân có con dưới 36 tháng tuổi theo mẹ vào trại giam được giam giữ riêng và phạm nhân là người đồng tính, người chuyển đổi giới tính, người chưa xác định rõ giới tính có thể được giam, giữ riêng.
Điều 33 của Luật quy định: Căn cứ vào độ tuổi, sức khỏe, giới tính, mức án, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của phạm nhân; điều kiện đất đai, tài nguyên, ngành, nghề, trang thiết bị, phương tiện, vật tư, nguồn vốn mà trại giam đang quản lý và điều kiện cụ thể của trại giam; khả năng hợp tác với tổ chức, cá nhân để tổ chức lao động cho phạm nhân, Giám thị trại giam lập kế hoạch tổ chức lao động cho phạm nhân trong năm, gửi cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an, cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng để phê duyệt (khoản 1). Thời gian phạm nhân lao động và học tập, học nghề không quá 08 giờ trong 01 ngày, 05 ngày trong một tuần, được nghỉ lao động các ngày thứ bảy, ngày chủ nhật, lễ, tết theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 32). Khoản 4 Điều 32 bổ sung quy định: Phạm nhân được nghỉ lao động trong các trường hợp sau đây: Phạm nhân bị bệnh, không đủ sức khỏe lao động và được y tế trại giam xác nhận; phạm nhân đang điều trị tại cơ sở y tế; phạm nhân có con dưới 36 tháng tuổi đang ở cùng mẹ trong trại giam mà bị bệnh, được y tế trại giam xác nhận; phạm nhân nữ có thai được nghỉ lao động trước và sau khi sinh con theo quy định của pháp luật về lao động.
- Chế độ hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ: mỗi phân trại của trại giam được thành lập thư viện, khu vui chơi, sân thể thao, được trang bị một hệ thống truyền thanh, mỗi buồng giam tập thể được trang bị một máy vô tuyến truyền hình màu....
- Chế độ gặp thân nhân, nhận quà, liên lạc: phạm nhân được gặp thân nhân một lần trong 01 tháng, mỗi lần gặp không quá 01 giờ, trường hợp đặc biệt thì được kéo dài thời gian nhưng không quá 03 giờ. Phạm nhân chấp hành nghiêm chỉnh nội quy, quy chế trại giam hoặc lập công thì được gặp vợ hoặc chồng ở phòng riêng không quá 24 giờ.... Trước đây, theo quy định tại Điều 46 Luật thi hành án hình sự năm 2010 phạm nhân chỉ được nhận quà là tiền khi được gặp trực tiếp thân nhân. Thì hiện nay, theo quy định tại khoản 4 Điều 52 Luật Thi hành án hình sự 2019, phạm nhân được nhận quà là tiền, đồ vật do thân nhân gửi qua đường bưu chính không quá 02 lần trong 01 tháng. Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm tiếp nhận tiền, đồ vật mà thân nhân của phạm nhân gửi cho phạm nhân và bóc, mở, kiểm tra để phát hiện và xử lý đồ vật thuộc danh mục cấm theo quy định của pháp luật. Khoản 3 Điều 52 cũng quy định đối với tiền, phạm nhân phải gửi trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện quản lý. Việc quản lý, sử dụng đồ vật, tiền của phạm nhân được thực hiện theo quy định tại các điểm a, b và c khoản 3 Điều 28 của Luật này.
- Chế độ ăn, mặc, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân là người nước ngoài: phạm nhân là người nước ngoài được quản lý giam giữ riêng trong trại giam. Các chế độ về ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân là người nước ngoài được thực hiện như quy định đối với phạm nhân là người Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.
- Về các chế độ khác: phạm nhân và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền thi hành án hình sự nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình (khoản 1, Điều 176). Người khiếu nại có quyền được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật (điểm d, khoản 1, Điều 180).
Việc quy định rõ ràng về chế độ quản lý giam giữ, chế độ sinh hoạt của người đang chấp hành án phạt tù như phân tích ở trên giúp xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong thi hành án hình sự, tránh tình trạng lạm quyền, không thực hiện đầy đủ trách nhiệm dẫn đến nguy cơ phát sinh hành vi tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục đối với người chấp hành hình phạt tù.
2.6. Về tha tù trước thời hạn có điều kiện
Trên cơ sở quy định của Điều 66, Bộ luật hình sự năm 2015 (Tha tù trước thời hạn có điều kiện) và Điều 368 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (Thủ tục xét tha tù trước thời hạn có điều kiện), Luật bổ sung Mục 3, Chương III, gồm 16 điều, từ Điều 57 đến Điều 72 quy định về tha tù trước thời hạn có điều kiện, bao gồm các quy định về: thời điểm; hồ sơ quản lý, cơ quan quản lý, nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao quản lý người được tha tù trước thời hạn có điều kiện; nghĩa vụ, việc lao động, học tập, rút ngắn thời gian thử thách, thủ tục rút ngắn thời gian thử thách; thực hiện việc kiểm điểm, việc vắng mặt tại nơi cư trú; xử lý người được tha tù trước thời hạn có điều kiện vi phạm nghĩa vụ hoặc vi phạm pháp luật bị xử phạt vi phạm hành chính; giải quyết trường hợp phạm nhân đã được đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện vi phạm nội quy trại giam, cơ sở giam giữ hoặc có hành vi vi phạm pháp luật; hủy bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện; trách nhiệm của gia đình người được tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Điều 3 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định:
“1. Người bị tạm giữ là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
2. Người bị tạm giam là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bao gồm bị can; bị cáo; người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án; người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ.”
Điều 4 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định các nguyên tắc quản lý thi hành tạm giữ, tạm giam, trong đó có có các nguyên tắc nhằm phòng, chống tra tấn, truy bức, nhục hình cũng như đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam:
- Bảo đảm nhân đạo; không tra tấn, truy bức, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam;
- Bảo đảm cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân nếu không bị hạn chế bởi Luật này và luật khác có liên quan.
- Áp dụng các biện pháp quản lý giam giữ phải căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, độ tuổi, giới tính, sức khỏe; bảo đảm bình đẳng giới, quyền, lợi ích chính đáng của phụ nữ, trẻ em và các đặc điểm nhân thân khác của người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
Đồng thời, Điều 8 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam cũng quy định các hành vị bị nghiêm cấm đối với cơ quan, người có thẩm quyền trong công tác thi hành tạm giữ, tạm giam như:
- Tra tấn, truy bức, dùng nhục hình; các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, hạ nhục con người hoặc bất kỳ hình thức nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam (khoản 1);
- Giam giữ người trái pháp luật (khoản 2);
- Cản trở người bị tạm giữ, người bị tạm giam thực hiện quyền thăm gặp thân nhân, quyền bào chữa, được trợ giúp pháp lý, tiếp xúc lãnh sự, khiếu nại, tố cáo, quyền con người, quyền và nghĩa vụ khác của công dân theo quy định của Luật này và luật khác có liên quan (khoản 4);
- Thực hiện hoặc tổ chức, kích động, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, giúp sức, che giấu, ép buộc người khác vi phạm pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; trả thù, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác trong thi hành tạm giữ, tạm giam (khoản 7).
Đồng thời, Điều 9 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định cụ thể về các quyền của người bị tạm giữ, tạm giam, gồm có:
- Được bảo vệ an toàn tính mạng, thân thể, tài sản, tôn trọng danh dự, nhân phẩm; được phổ biến các quyền và nghĩa vụ của mình, nội quy của cơ sở giam giữ;
- Được thực hiện quyền bầu cử theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân theo quy định của Luật trưng cầu ý dân;
- Được bảo đảm chế độ ăn, ở, mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân, chăm sóc y tế, sinh hoạt tinh thần, gửi, nhận thư, nhận quà, nhận sách, báo, tài liệu;
- Được gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự;
- Được hướng dẫn, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa, trợ giúp pháp lý;
- Được gặp người đại diện hợp pháp để thực hiện giao dịch dân sự;
- Được yêu cầu trả tự do khi hết thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam;
- Được khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật;
- Được bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nếu bị giam, giữ trái pháp luật;
- Được hưởng các quyền khác của công dân nếu không bị hạn chế bởi Luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp các quyền đó không thể thực hiện được do họ đang bị tạm giữ, tạm giam.
Để phòng, chống hiệu quả hành vi tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định cụ thể về chế độ quản lý giam giữ và quyền của người bị tạm giữ, tạm giam. Cụ thể là:
Thứ nhất, về chế độ quản lý giam giữ, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định rõ về trình tự tiếp nhập người bị tạm giữ, tạm giam (Điều 16), trong đó có một số nội dung quan trọng như: (i) tổ chức khám sức khỏe, kiểm tra thân thể của người bị tạm giữ, người bị tạm giam và trẻ em dưới 36 tháng tuổi đi theo (nếu có). Việc kiểm tra thân thể người bị tạm giữ, người bị tạm giam là nam giới do cán bộ nam thực hiện, nữ giới do cán bộ nữ thực hiện và được tiến hành ở nơi kín đáo; và (ii) Phổ biến, hướng dẫn, giải thích quyền, nghĩa vụ của người bị tạm giữ, tạm giam và nội quy của cơ sở giam giữ; kiểm tra và xử lý đồ vật mang theo trước khi đưa vào buồng tạm giữ, buồng tạm giam.
Thứ hai, Chương IV Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định cụ thể chế độ ăn, ở, chế độ mặc và tư trang, chế độ gửi, nhận thư, sách, bảo và tài liệu… của người bị tạm giữ, tạm giam. Các chế độ này, về cơ bản, tương tự với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù được quy định tại Luật thi hành án hình sự và đáp ứng được các tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế về tạm giữ, tạm giam.
Theo quy định của Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, hiện nay, cơ quan điều tra hình sự được chia thành: cơ quan điều tra hình sự thuộc Bộ Công an, cơ quan điều tra thuộc Bộ Quốc phòng và cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ngoài ra, Điều 9 của Luật cũng quy định về một số cơ quan có thẩm quyền điều tra thuộc Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển.
Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 đã quy định nghiêm cấm bức cung, dùng nhục hình và các hình thức tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, hạ nhục con người hay bất kỳ hình thức nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân (khoản 2 Điều 14). Ngoài ra, Luật này cũng nghiêm cấm cản trở người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa, trợ giúp pháp lý; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự; cản trở người bào chữa, người thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện việc bào chữa, trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật (Khoản 3, 4 của Điều 14). Nếu điều tra viên vi phạm quy định này, có thể phải bị cách chức chức danh Điều tra viên (Điểm b Khoản 4 Điều 56).
Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Bên cạnh quy định tại khoản 5 Điều 183 BLTTHS năm 2015, theo đó Kiểm sát viên, Kiểm tra viên bức cung, dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 cũng có những quy định cụ thể hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên, kiểm tra viên, những việc không được làm, quy định về cách chức kiểm sát viên trong trường hợp vi phạm quy định của pháp luật trong khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp (Điều 89).
Điều 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định cụ thể về chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân, theo đó, thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Việc thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm hai mục đích: (1) Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; và (2) Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.
Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. Luật cũng quy định, Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình trong việc thực hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư pháp. Kiểm sát viên phải chấp hành quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao và phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với Viện trưởng; trường hợp Viện trưởng vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và Kiểm sát viên phải chấp hành nhưng không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo lên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên có thẩm quyền. Viện trưởng đã quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối với vi phạm pháp luật của Kiểm sát viên khi thực hiện nhiệm vụ được giao; có quyền rút, đình chỉ hoặc hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của Kiểm sát viên (Điều 83).
Điều 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định cụ thể về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân. Theo đó, kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm: (1) Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng quy định của pháp luật; (2) Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ; (3) Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh; (4) Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.
Khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Trong quá trình xét xử, Tòa án tôn trọng những nguyên tắc như sau:
- Bảo đảm chế độ xét xử tập thể;
- Bảo đảm kịp thời, công khai, công bằng;
- Bảo đảm tranh tụng trong xét xử;
- Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự;
Điều 76 của Luật cũng quy định cụ thể các trách nhiệm của thẩm phán. Theo đó, thẩm phán xét xử độc lập, vô tư, khách quan, bảo vệ công lý trong xét xử; chấp hành quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán, giữ gìn uy tín của Tòa án. Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và các quyết định của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật. Thẩm phán trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ xét xử có trách nhiệm bồi thường và Thẩm phán đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của luật.
Thẩm phán, cũng như cán bộ, công chức phải nghiêm túc chấp hành quy định về những việc công chức không được làm. Bên cạnh đó, do đặc thù công việc, luật cũng quy định một số việc cụ thể mà thẩm phán không được làm, theo đó, thẩm phán không được can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án (khoản 3 Điều 77). Quy định này cũng góp phần hạn chế thẩm phán lợi dụng ảnh hưởng của mình để có các hành vi trái pháp luật, ví dụ như bức cung, nhục hình hoặc gây ảnh hưởng dẫn đến việc các cán bộ tiến hành tố tụng khác như điều tra viên, kiểm sát viên có hành vi bức cung, nhục hình, dẫn đến hậu quả làm sai lệch hồ sơ vụ án. Nếu vi phạm, thẩm phán có thể phải chịu hình thức kỉ luật cách chức (Điều 82).
Bên cạnh thẩm phán, hội thẩm nhân dân cũng là người đóng vai trò quan trọng trong quá trình xét xử vụ án. Điều 89 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân đã quy định tương đối cụ thể về trách nhiệm của hội thẩm, theo đó, hội thẩm phải độc lập, vô tư, khách quan trong xét xử, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Hội thẩm nhân dân phải hịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật bãi nhiệm hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật. Hội thẩm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Hội thẩm đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp vi phạm, hội thẩm có thể phải chịu hình thức bãi nhiệm, miễn nhiệm theo quy định của khoản 2 Điều 90 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
Để thực hiện nghĩa vụ được nêu tại quy định nói trên, tại mục II.2.e Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước chống tra tấn đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu, rà soát pháp luật về bạo lực tại nơi làm việc, bạo lực giới, bạo lực gia đình, bạo lực với trẻ em và các đối tượng yếu thế, để có những điều chỉnh đồng bộ bảo vệ các nhóm đối tượng này.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã có các quy định liên quan đến phòng chống các hành vi đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người dưới các hình thức bạo lực tại nơi làm việc, bạo lực giới, bạo lực gia đình, bạo lực với trẻ em được quy định tại Bộ luật lao động, Luật bình đẳng giới, Luật chống bạo lực gia đình, Luật trẻ em. Cụ thể như sau:
Với tinh thần bảo vệ người lao động một cách toàn diện, bảo vệ tất cả các quyền con người trong lĩnh vực lao động thì các quyền nhân thân gắn với lĩnh vực lao động là đối tượng quan trọng cần được pháp luật lao động coi trọng bảo vệ. Vấn đề bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người lao động trong quá trình lao động được đặc biệt chú trọng. Bộ luật Lao động cũng quy định cụ thể trách nhiệm cho từng cấp, ngành, nhằm mục đích là bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe cho người lao động và phòng chống các hành vi bạo lực tại nơi làm việc được thực hiện bởi người sử dụng lao động. Các đơn vị sử dụng lao động phải thực hiện đầy đủ chế độ khám sức khỏe, trợ cấp độc hại cho người lao động. Việc sử dụng lao động phải đảm bảo thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, không vượt quá mức luật quy định. Người sử dụng lao động phải phải rút ngắn thời gian làm việc cho các đối tượng: Lao động tàn tật, lao động chưa thành niên, lao động giúp việc, lao động làm những công việc nặng nhọc, độc hại để đảm bảo sức khỏe cho họ.
Trong mối quan hệ với người sử dụng lao động, người lao động được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín và nghiêm cấm người sử dụng lao động xúc phạm bằng bất cứ hình thức nào. Việc phân biệt đối xử, trả thù, trù dập người lao động vì bất cứ lý do nào đều vi phạm pháp luật. Ngay cả khi người lao động vi phạm kỷ luật thì người sử dụng lao động cũng không được xúc phạm thân thể, danh dự, nhân phẩm của người lao động.
Những quy định trên là nhằm mục đích để bảo vệ người lao động khi họ tham gia vào các quan hệ lao động, điều đó đã trở thành nguyên tắc cơ bản và được pháp luật lao động ghi nhận.
Khi tham gia vào quan hệ lao động, người lao động luôn ở vị trí yếu thế hơn so với người sử dụng lao động do trong quá trình làm việc, họ là người phải trực tiếp thực hiện công việc theo yêu cầu của bên sử dụng lao động, phải đối mặt với nhiều nguy cơ, cuộc sống của họ bị ảnh hưởng bởi những khó khăn phát sinh trong quan hệ này, họ khó có điều kiện thỏa thuận bình đẳng thực sự với bên sử dụng lao động như yêu cầu của thị trường. Do đó người lao động cần được sự bảo vệ để hạn chế những bất lợi, những sức ép do điều kiện khách quan mang lại, kể cả sự bảo vệ của pháp luật một cách đúng mức để sử dụng sức lao động hợp lí, hạn chế xu hướng lạm quyền của người sử dụng lao động gây ảnh hưởng tới sức khoẻ, tính mạng của người lao động.
Lời nói đầu của Bộ luật lao động khẳng định: “Bộ luật lao động bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao động”. Với tinh thần bảo vệ người lao động một cách toàn diện, bảo vệ tất cả các quyền con người trong lĩnh vực lao động thì quyền nhân thân gắn với lĩnh vực lao động là đối tượng quan trọng cần bảo vệ. Gắn bó mật thiết trong lĩnh vực lao động là quyền của người lao động được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe, được bảo vệ danh dự, nhân phẩm…Vấn đề bảo vệ tính mạng sức khỏe người lao động trong quá trình lao động được đặc biệt chú trọng, phản ánh ở các quy định cụ thể của Bộ luật lao động:
- Để bảo đảm quyền con người của người lao động, Bộ luật Lao động đã quy định người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ: “tôn trọng danh dự, nhân phẩm của người lao động” (Điều 6). Thực tế cho thấy, do nhiều nguyên nhân như sức ép doanh số, sự cạnh tranh của các doanh nghiệp, do thiếu hiểu biết pháp luật, sự biến chất về đạo đức của người sử dụng lao động... đã dẫn tới hệ quả người lao động bị xúc phạm danh dự nhân phẩm, bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hay bị sa thải trái pháp luật thậm chí bị đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc bị hạ nhục từ phía người sử dụng lao động… Do đó, Bộ luật Lao động năm 2012 đã có các quy định nhằm bảo vệ quyền nhân thân cho người lao động trong đó đặc biệt quan tâm tới việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính mạng của người lao động.
- Để phòng chống tình trạng bạo lực tại nơi làm việc, Bộ luật Lao động còn quy định các hành vi bị nghiêm cấm như: Ngược đãi người lao động, quấy rối tình dục tại nơi làm việc; Lợi dụng danh nghĩa dạy nghề, tập nghề để trục lợi, bóc lột sức lao động hoặc dụ dỗ, ép buộc người học nghề, người tập nghề vào hoạt động trái pháp luật; Sử dụng lao động chưa thành niên trái pháp luật[20].
- Bộ luật Lao động năm 2012 lần đầu tiên có quy định về khái niệm “cưỡng bức lao động”, theo đó “cưỡng bức lao động là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm buộc người khác lao động trái ý muốn của họ”. Khái niệm này được xây dựng trên cơ sở khái niệm lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc theo Công ước số 29 về lao động cưỡng bức.
- Bộ luật lao động quy định, người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong trường hợp: Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động. Bởi khi thấy những hành vi này có thể xâm hại làm ảnh hưởng đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của mình thì người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng. Nghị định 05/2015 NĐ-CP đã hướng dẫn cụ thể trường hợp bị ngược đãi, cướng bức như sau: "Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động tại Điểm c Khoản 1 Điều 37 Bộ luật Lao động trong các trường hợp bị người sử dụng lao động đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự hoặc cưỡng bức lao động; bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc”; cưỡng bức được hiểu là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm buộc người khác lao động trái ý muốn của họ.
Khoản 1 Điều 163 Bộ luật Lao động quy định về nguyên tắc sử dụng lao động là người chưa thành niên, đó là:
(i) Không được sử dụng lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh hưởng xấu tới nhân cách của họ theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành;
(ii) Thời giờ làm việc của người lao động chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi không được quá 08 giờ trong 01 ngày và 40 giờ trong 01 tuần; và
(iii) Thời giờ làm việc của người dưới 15 tuổi không được quá 4 giờ trong 01 ngày và 20 giờ trong 01 tuần và không được sử dụng làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm.
Để phòng chống bạo lực tại nơi làm việc hiệu quả, Điều 165 Bộ luật Lao động quy định về các công việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên, đó là: cấm mang, vác, nâng các vật nặng vượt quá thể trạng của người chưa thành niên; cấm sản xuất, sử dụng hoặc vận chuyển hóa chất, khí gas, chất nổ; cấm bảo trì, bảo dưỡng thiết bị, máy móc; Phá dỡ các công trình xây dựng; cấm nấu, thổi, đúc, cán, dập, hàn kim loại; cấm lặn biển, đánh bắt cá xa bờ; cấm công việc khác gây tổn hại cho sức khoẻ, an toàn hoặc đạo đức của người chưa thành niên.Hoặc cấm sử dụng người chưa thành niên làm việc ở các nơi sau đây: dưới nước, dưới lòng đất, trong hang động, trong đường hầm; công trường xây dựng; cơ sở giết mổ gia súc; sòng bạc, quán bar, vũ trường, phòng hát karaoke, khách sạn, nhà nghỉ, phòng tắm hơi, phòng xoa bóp; nơi làm việc khác gây tổn hại đến sức khoẻ, sự an toàn và đạo đức của người chưa thành niên.
Khoản 3 Điều 181 Bộ luật Lao động quy định về nghĩa vụ sử dụng lao động đó là: Tôn trọng danh dự, nhân phẩm của người giúp việc gia đình. Đồng thời nhữnghành vi bị nghiêm cấm đối với người sử dụng lao động thực hiện đối với người giúp việc đó là: Ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động, dùng vũ lực đối với lao động là người giúp việc gia đình (Điều 183).
Khi phát hiện có những hành vi ngược đãi, quấy rối tình dục hoặc cưỡng bức lao động đối với mình, người giúp việc gia đình có quyền: Tố cáo với cơ quan có thẩm quyền nếu người sử dụng lao động có hành vi ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động hoặc có những hành vi khác vi phạm pháp luật (Khoản 4 Điều 182 Bộ luật Lao động).
Bạo lực giới (hay bạo lực trên cơ sở giới) là “bạo lực nhằm vào một người trên cơ sở đối xử phân biệt giới hoặc giới tính. Nó bao gồm các hành động gây tác hại hoặc gây đau đớn về thể xác, tinh thần hay tình dục, gồm cả sự đe dọa thực hiện những hành vi này, sự cưỡng bức và tước đoạt tự do dưới các hình thức khác nhau. Nguyên nhân gốc rễ của bạo lực giới là bất bình đẳng giới và thái độ cá nhân chấp nhận bạo lực cả trong gia đình và xã hội. Mặc dù phụ nữ, nam giới, trẻ em trai và trẻ em gái, thậm chí những người đồng tính, song tính, chuyển giới, đều có thể trở thành nạn nhân của bạo lực giới, phụ nữ và trẻ em gái thường là nạn nhân chủ yếu”[21]. Vì vậy, “ trong khuôn khổ các cơ chế nhân quyền quốc tế, khái niệm bạo lực trên cơ sở giới và bạo lực đối với phụ nữ thường được sử dụng thay thế cho nhau”[22].
Hình thức của bạo lực giới rất đa dạng. Đó có thể là bạo lực thể xác, tình dục và tâm lý xảy ra trong gia đình (như hành vi bóc lột tình dục, cưỡng hiếp trong hôn nhân…); xảy ra trong xã hội (buôn bán phụ nữ, mại dâm cưỡng bức…); và thậm chí, nó có thể được gây ra hoặc được bỏ qua bởi Nhà nước và các tổ chức hoặc cho dù xảy ra ở bất cứ đâu. Các hình thức bạo lực giới khác nhau có liên hệ chặt chẽ với nhau do có chung nguồn gốc là bất bình đẳng giới. Bạo lực giới có thể xảy ra trong cuộc sống xã hội hay kể cả là cuộc sống riêng tư. Cho nên, bạo lực giới không chỉ giới hạn ở bạo lực gia đình vì nó không chỉ xảy ra trong gia đình mà còn ở nơi công cộng và các môi trường khác.
Ở Việt Nam, mặc dù bạo lực giới không được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, pháp luật Việt Nam đã tạo ra các bảo đảm pháp lý quan trọng giúp tăng chỉ số bình đẳng giới và giảm chỉ số bất bình bẳng giới nhằm giải quyết nguyên nhân gốc rễ dẫn tới tình trạng bạo lực giới. Một trong số các bảo đảm đó chính là sự ra đời của Luật bình đẳng giới năm 2006.
Luật bình đẳng giới đã đưa ra khái niệm về bình đẳng giới và bất bình đẳng giới. Theo đó:
“Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”[23]. Bình đẳng giới được thể hiện trên bốn phương diện (bình đẳng về vị trí, vai trò; tiếp cận cơ hội; sử dụng cơ hội; hưởng thụ thành quả) và ở mọi mặt của đời sống (từ trong gia đình cho đến các lĩnh vực kinh tế; chính trị; lao động; y tế....). Theo quy định của pháp luật, bình đẳng giới cần được tiếp cận theo hướng công bằng giữa nam – nữ, chứ không phải chỉ ưu tiên cho phụ nữ và trẻ em gái. Tuy nhiên, trên thực tế, phụ nữ và trẻ em gái là nhóm “nạn nhân” chính của bạo lực giới do các nguyên nhân xuất phát từ quan niệm “trọng nam, khinh nữ'', đề cao người nam giới và hạ thấp tiếng nói của phụ nữ đã “ăn” sâu vào trong suy nghĩ của chúng ta từ nhiều đời nay và chưa thể được xóa bỏ hoàn toàn. Vì vậy, trong các Bộ luật và Luật chuyên ngành, vẫn có những quy định riêng giúp bảo vệ một cách tốt nhất cho nhóm đối tượng này tránh khỏi những hình thức do bạo lực giới gây ra.
Cần lưu ý rằng, các quy định nhằm tạo vị thế bình đẳng cho phụ nữ không tạo nên sự không công bằng cho nhóm còn lại là nam giới vì nhiều lý do liên quan đến: đặc điểm sinh học, tính cách hay định kiến giới…. Luật bình đẳng giới: đã quy định rõ nguyên tắc này tại khoản 4 Điều 6 Luật bình đẳng giới: “Chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ không bị coi là phân biệt đối xử về giới”. Đây cũng là một trong những đảm bảo pháp lý phù hợp với các quy định của Công ước quốc tế về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (gọi tắt là CEDAW) năm 1979 mà Việt Nam là thành viên.
“Bất bình đẳng giới là sự phân biệt đối xử với nam, nữ về vị thế, điều kiện và cơ hội bất lợi cho nam, nữ trong việc thực hiện quyền con người, đóng góp và hưởng lợi từ sự phát triển của gia đình, của đất nước”[24]. Bất bình đẳng giới cũng được thể hiệntrên bốn phương diện (bất bình đẳng về vị trí, vai trò; tiếp cận cơ hội; sử dụng cơ hội; hưởng thụ thành quả) và cũng có thể diễn ra ở mọi mặt của đời sống (từ trong gia đình cho đến các lĩnh vực kinh tế; chính trị; lao động; y tế....). Bất bình đẳng giới có nguồn gốc từ sự nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ (định kiến giới). Và biểu hiện bằngviệc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình (phân biệt đối xử về giới).Nơi nào không tồn tại bình đẳng giới thì nơi đó sẽ luôn hiện hữu bất bình đẳng giới và trở thành “mảnh đất màu mỡ” cho bạo lực giới được “nuôi dưỡng”, phát triển.
Nếu như trong Bộ luật lao động, Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật trẻ em, BLHS…các hình thức của bạo lực giới được quy định cụ thể dưới dạng hành vi thì Luật bình đẳng giới lại tập trung ghi nhận một cách khái quát sự bình quyền giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình;các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới cũng như trách nhiệm của các chủ thể trong việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới. Luật bình đẳng giới năm 2006 quy định nam – nữ có quyền bình đẳng như nhau trong các lĩnh vực: chính trị; kinh tế; lao động; giáo dục, đào tạo; khoa học, công nghệ; văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao; y tế và gia đình. Trong các lĩnh vực kể trên, sự bất bình đẳng giới trong gia đình và trong lao động sẽ gây ra các dạng bạo lực giới điển hình nhất.
- Bình đẳng giới trong gia đình: Điều 18 Luật bình đẳng giới năm 2006 quy định chi tiết nội dung về quyền bình đẳng giữa vợ - chồng, con trai – con gái, nam – nữ trong gia đình. Cụ thể:
+ Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình. Khi quan hệ vợ chồng (quan hệ hôn nhân) được xác lập điều đó cần phải được đảm bảo rằng hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện từ cả hai phía nam giới – nữ giới. Mọi hành vi cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ đều có thể sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử phạt hành chính tương ứng với từng trường hợp và tùy mức độ. Đây là một thực trạng tuy rằng không phổ biến ở thành phố, đô thị văn minh mà chỉ tập trung ở các vùng dân tộc xa xôi, hẻo lánh nhưng cũng là một dạng bạo lực giới cần được loại bỏ khỏi xã hội. Vì, một khi đã tồn tại sự ép buộc thì kéo theo đó có thể là hàng loạt những hành vi mang tính chất hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần bằng của cải hoặc các thủ đoạn khác.
Ngoài ra, sự bình đẳng giữa vợ và chồng còn được thể hiện trong các giao dịch dân sự; trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình. Đồng thời, vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật.
+ “Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển”[25]. Pháp luật ghi nhận trẻ em trai và trẻ em gái phải được tôn trọng, phải được quan tâm, chăm sóc và tạo điều kiện như nhau. Không có bất kì sự phân biệt nào được cho phép chỉ đơn giản bởi vì đó là bé trai hoặc bé gái. Tuy nhiên, có một thực tế là không chỉ ở vùng quê hay vùng sâu, vùng xa mà ngay cả ở những đô thị văn minh, tư tưởng trọng nam, khinh nữ vẫn luôn tồn tại rất phổ biến. Biểu hiện điển hình đó chính là nhiều gia đình vẫn có xu hướng mong muốn có con trai hơn con gái. Khi mong muốn đó không được đáp ứng một cách tự nhiên, thì họ lại nhờ cậy đến sự tiến bộ của công nghệ sinh sản để nạo phá thai lựa chọn giới tính hoặc sàng lọc sinh con trai theo ý muốn. Lúc này, bạo lực giới được hình thành kể từ khi con người còn chưa được sinh ra. Hệ quả sau cùng đó chính là sự mất cân bằng về giới tính ngày càng phổ biến. Và mặc dù việc lựa chọn giới tính thai nhi dưới bất kì hình thức nào đều là bất hợp pháp tại Việt Nam (vi phạm pháp luật về dân số và trẻ em), việc thực thi các quy định này trên thực tế chưa thực sự hiệu quả.
+ Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình. Quan niệm công việc nội trợ, nuôi con là công việc dành riêng cho phụ nữ vẫn còn tồn tại ở một số quốc gia Châu Á, trong đó có Việt Nam, dẫn tới việc phụ nữ luôn phải gánh vác công việc trong gia đình như: chăm sóc con nhỏ, người già, người đau ốm; giặt giũ, đi chợ, nấu ăn; dọn dẹp nhà cửa…. Điều này dẫn tới những cản trở nhất định đối với sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động khác như lao động, học tập…. Tuy nhiên, hiệu lực của các quy định đảm bảo bình đẳng giữa nam và nữ trong gánh vác công việc gia đình còn phụ thuộc nhiều vào ý thức của các cá nhân. Trong nhiều trường hợp, các vi phạm quy định này chỉ được phát hiện khi đã biểu hiện ở các hình thức bạo lực gia đình.
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động: Hiến pháp Việt Nam năm 2013 ghi nhận: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc”[26] và “nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động”. Trên cơ sở nguyên tắc hiến định, tại Điều 13 Luật bình đẳng giới năm 2006 cũng có quy định liên quan đến vấn đề phòng chống bạo lực trong lĩnh vực lao động như sau: “Nam, nữ bình đẳng được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác”.
Khác với dạng bạo lực giới trong gia đình, bạo lực trong lĩnh vực lao động được xác lập dựa trên mối quan hệ bất bình đẳng giữa người sử dụng lao động – người lao động (có thể có sự lồng ghép trong đó mối quan hệ bất bình đẳng giới giữa nam giới – nữ giới trong trường hợp nữ giới là người lao động bị người sử dụng lao động là nam giới có những hành vi bạo lực về tình dục như quấy rối tình dục, cưỡng ép tình dục làm hàng hóa để đổi lấy lợi ích…). Để phòng chống tình trạng bạo lực tại nơi làm việc, thống nhất với nguyên tắc được quy định tại Điều 13 Luật bình đẳng giới năm 2006, pháp luật về lao động, trong đó có Bộ luật lao động năm 2012 đã quy định cụ thể về chế độ làm việc, điều kiện nơi làm việc cũng như chế độ phúc lợi, tiền lương, tiền thưởng… Đồng thời, Bộ luật lao động năm 2012 cũng quy định các hành vi bạo lực bị cấm trong lĩnh vực lao động như: cấm ép buộc người lao động làm việc nhằm bóc lột vì lợi ích của người sử dụng (thông qua việc cấm bớt xén tiền lương, buộc người lao động phải lèm thêm giờ, làm việc trong tình trạng có nguy cơ xảy ra tai nạn lao động đe dọa đến sức khỏe, tính mạng của người lao động, giam giữ, đánh đập hoặc cưỡng bức…); cấm bắt buộc người lao động làm việc như một hình thức xử lý kỷ luật, như một biện pháp trừng phạt vì lý do đình công, như một biện pháp phân biệt đối xử; cấm lao động cưỡng bức đối với trẻ em và đối với người lao động trong quan hệ cho thuê lại lao động)…
Bên cạnh việc quy định sự bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, Luật bình đẳng giới còn quy định các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới cũng như trách nhiệm của các chủ thể trong việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới để việc thúc đẩy bình đẳng giới có hiệu quả trong thực tiễn thi hành.
Có thể thấy rằng, Luật bình đẳng giới năm 2006, với tư cách là “luật chuyên ngành có giá trị pháp lý cao nhất liên quan đến lĩnh vực bình đẳng giới”, chỉ quy định về những vấn đề mang tính nguyên tắc và khái quát chung, là cơ sở để triển khai các quy định trong những văn bản quy phạm pháp luật khác về các nội dung có liên quan đến bình đẳng giới. Trên nền tảng hiến định về bình đẳng giới trong Hiến pháp năm 2013, cùng với sự ra đời của Luật bình đẳng giới năm 2006 và các quy định về bình đẳng giới trong: Luật hôn nhân và gia đình, Luật trẻ em, Bộ luật lao động (có 1 chương riêng về các quy định đối với lao động nữ)… đã tạo nên hệ thống quy định pháp luật tương đối hoàn thiện, đồng bộ về bình đẳng giới, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và xu thế hội nhập quốc tế của đất nước trong thời kỳ mới.
Bạo lực gia đình hiện nay là vấn nạn của toàn xã hội, có thể xảy ra ở bất cứ gia đình nào mà không có sự phân biệt về vùng miền, thu nhập, địa vị xã hội hay tuổi tác. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tại Việt Nam, 41,8% số cha/mẹ sử dụng hình thức quát mắng và 14% sử dụng hình thức đánh đòn khi vị thành niên nam có hành vi mắc lỗi; 58% phụ nữ từng kết hôn đã từng bị một trong các loại bạo lực bởi người chồng (bạo lực tinh thần là 54%, bạo lực thể xác là 32%, bạo lực tình dục là 10%, bạo lực thể xác và tình dục là 34%)[27]. Hậu quả mà bạo lực gia đình gây ra cũng hết sức nặng nề, đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em.
Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều sự quan tâm tới việc phòng, chống bạo lực gia đình và đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề này như Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Trẻ em… Đặc biệt Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 là công cụ pháp lý hữu hiệu để xử lý những chủ thể có hành vi bạo lực gia đình, bảo vệ quyền lợi cho nạn nhân nhằm duy trì sự ổn định, bền vững của mỗi gia đình và toàn xã hội.
Bạo lực được hiểu là “dùng sức mạnh để cưỡng bức, trấn áp hoặc lật đổ” nhưng trong thực tế, bạo lực còn được coi như một phương thức hành xử trong các quan hệ xã hội nói chung, có trường hợp bạo lực nhìn thấy nhưng cũng có trường hợp không nhìn thấy được. Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình”.
Xét về hình thức, có thể chia bạo lực gia đình thành ba nhóm gồm: bạo lực về thể chất, bạo lực về tinh thần, bạo lực về kinh tế. Bạo lực gia đình là một trong những hành vi rất cần phải lên án bởi bản thân mỗi người đều có quyền tự do, bình đẳng, được pháp luật bảo vệ những lợi ích chính đáng. Gia đình là nơi con người được sinh ra, được chăm sóc, nuôi dưỡng và yêu thương nhưng lại xảy ra bạo lực thì sẽ rất khó có thể duy trì trật tự trong xã hội. Tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người luôn được đề cao và là đối tượng được pháp luật bảo vệ.
Các hành vi bạo lực gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 gồm:
- Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng. Đây là hành vi có sử dụng vũ lực, thậm chí có sử dụng công cụ, phương tiện hỗ trợ để đánh đập, ngược đãi thành viên trong gia đình. Hành vi này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, thậm chí tính mạng người khác. Đây được coi là dạng hành vi phổ biến nhất của bạo lực gia đình, phần lớn người thực hiện hành vi này là nam giới.
- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Đây là việc có những lời lẽ thô tục, khiếm nhã nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác, hoặc có thể bịa đặt, loan tin xấu về thành viên trong gia đình với người khác khiến họ cảm thấy xấu hổ, bị tổn thương.
- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng, tức là có hành vi hắt hủi, xa lánh, không chấp nhận sự quan tâm của thành viên trong gia đình.
- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau, có nghĩa là không để cho các thành viên trong gia đình được quan tâm, chăm sóc lẫn nhau như không cho nhận tiền, thức ăn hay những sự hỗ trợ về mặt vật chất, tinh thần khác.
- Cưỡng ép quan hệ tình dục: khi một trong hai bên không muốn quan hệ tình dục nhưng bị ép buộc phải quan hệ.
- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ: cha mẹ, ông bà bắt con cháu kết hôn khi chưa đến tuổi, ép buộc ly hôn hoặc có hành vi ngăn cản con cháu tự nguyện kết hôn với người mà họ cho là không phù hợp.
- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình: cố tình lấy tài sản hợp pháp của thành viên khác và coi đó là tài sản của mình hoặc có hành vi đốt, bỏ, đập phá dẫn đến làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác hoặc của chung cả gia đình.
- Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính: bắt thành viên trong gia đình phải làm công việc nặng nhọc, làm việc trong thời gian dài không được nghỉ ngơi, vượt quá khả năng của họ hoặc bắt đóng góp tài chính vượt quá thu nhập cũng như khả năng của họ; hoặc thu giữ toàn bộ tài chính, không cho thành viên trong gia đình được chi dùng cá nhân cũng như các khoản chi khác dẫn đến phải lệ thuộc hoàn toàn về mặt tài chính.
- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở: có thể là đuổi thành viên ra khỏi nhà trong khi bản thân họ là người sở hữu hợp pháp ngôi nhà, là người có quyền sử dụng ngôi nhà đó…
Để ngăn ngừa bạo lực gia đình xảy ra và để lại những hậu quả đáng tiếc, pháp luật Việt Nam có những chính sách để phòng, chống bạo lực gia đình như: Hằng năm, Nhà nước bố trí ngân sách cho công tác phòng, chống bạo lực gia đình; khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, tài trợ cho hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình; phát triển các mô hình phòng ngừa bạo lực gia đình và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; khuyến khích việc nghiên cứu, sáng tác văn học, nghệ thuật về phòng, chống bạo lực gia đình; tổ chức, hỗ trợ việc bồi dưỡng cán bộ làm công tác phòng, chống bạo lực gia đình.Người trực tiếp tham gia phòng, chống bạo lực gia đình mà có thành tích thì được khen thưởng, nếu bị thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng và tài sản thì được hưởng chế độ theo quy định của pháp luật [28]. Để ngăn ngừa bạo lực gia đình xảy ra và để lại những hậu quả đáng tiếc, pháp luật Việt Nam có những chính ẳng, tôn trọng chủ quyền, phù hợp với pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế với những nội dung hết sức cụ thể như: xây dựng và thực hiện chương trình, dự án, hoạt động về phòng, chống bạo lực gia đình; tham gia tổ chức quốc tế; ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình; trao đổi thông tin và kinh nghiệm về phòng, chống bạo lực gia đình. Thông qua đó, công tác phòng chống bạo lực gia đình được đẩy mạnh và đạt hiệu quả.
Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 cũng có những quy định rất cụ thể về việc xử lý người có hành vi bạo lực gia đình để đảm bảo tính giáo dục, răn đe (Điều 42 và 43). Theo đó, người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật; Cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân có hành vi bạo lực gia đình nếu bị xử lý vi phạm hành chính thì bị thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người đó để giáo dục.
Bên cạnh việc đảm bảo và tôn trọng quyền con người nói chung, trẻ em cũng là đối tượng được Đảng và Nhà nước quan tâm bảo vệ trước mọi hành vi xâm hại trong đó có hành vi đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục. Đối chiếu các quy định của Công ước Chống tra tấn với Luật trẻ em 2016 cho thấy các quy định của Luật trẻ em hoàn toàn phù hợp, tương thích với các quy định của Công ước Chống tra tấn. Điều này được thể hiện ở các nội dung sau:
Thứ nhất, các hành vi có tính chất “tra tấn” hoặc đối xử tàn bạo, vô nhân đạo đối với trẻ em bị nghiêm cấm.
Mặc dù, Luật trẻ em 2016 không đưa ra định nghĩa riêng về các hành vi tra tấn trẻ em, cũng không có quy định nào trực tiếp nghiêm cấm hành vi tra tấn trẻ em, Luật có các quy định nghiêm cấm đối với các hành vi mà được coi là hành vi tra tấn, hành vi đối xử tàn bạo, vô nhân đạo đối với trẻ em (Điều 6), chẳng hạn như các hành vi:
- Tước đoạt quyền sống của trẻ em;
- Bỏ mặc trẻ em như bỏ đói, để trẻ chịu rét... nhằm tra tấn trẻ em;
- Xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em. Trong đó, bạo lực trẻ em là hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập; xâm hại thân thể, sức khỏe; lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; cô lập, xua đuổi và các hành vi cố ý khác gây tổn hại về thể chất, tinh thần của trẻ em; Bóc lột trẻ em là hành vi bắt trẻ em lao động trái quy định của pháp luật về lao động; trình diễn hoặc sản xuất sản phẩm khiêu dâm; tổ chức, hỗ trợ hoạt động du lịch nhằm Mục đích xâm hại tình dục trẻ em; cho, nhận hoặc cung cấp trẻ em để hoạt động mại dâm và các hành vi khác sử dụng trẻ em để trục lợi; Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào Mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức[29].
- Kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ em vì đặc điểm cá nhân, hoàn cảnh gia đình, giới tính, dân tộc, quốc tịch, tín ngưỡng, tôn giáo của trẻ em. Các hành vi kì thị, phân biệt đối xử với trẻ em có thể được sử dụng như biện pháp tra tấn tinh thần đối với trẻ;
- Cho trẻ em sử dụng rượu, bia, thuốc lá và chất gây nghiện, chất kích thích khác, thực phẩm không bảo đảm an toàn, có hại cho trẻ em. Ví dụ cho trẻ sử dụng chất gây nghiện rồi thông qua đó điều khiển trẻ em nhằm lấy thông tin, sự thú tội …;
- Cung cấp dịch vụ Internet và các dịch vụ khác phục vụ đối tượng trẻ em nhưng có nội dung ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của trẻ em. Ví dụ, việc cho trẻ em những hình ảnh bạo lực, man rợ... có thể gây ra các tổn thương tinh thần đối với trẻ em.
- Lợi dụng việc nhận chăm sóc thay thế trẻ em để xâm hại trẻ em.
Thứ hai, Chương II Luật Trẻ em 2016 quy định cụ thể, chi tiết về quyền trẻ em, trong đó:
- Các Điều 25, 26 và 27 quy định về quyền của trẻ em, qua đó gián tiếp bảo vệ trẻ em khỏi hành vi tra tấn hoặc đối xử tàn bạo, vô nhân đạo, cụ thể là:
+ Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị xâm hại tình dục.
+ Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bóc lột sức lao động; không phải lao động trước tuổi, quá thời gian hoặc làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định của pháp luật; không bị bố trí công việc hoặc nơi làm việc có ảnh hưởng xấu đến nhân cách và sự phát triển toàn diện của trẻ em.
+ Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc làm tổn hại đến sự phát triển toàn diện của trẻ em.
- Điều 30 quy định về quyền được bảo vệ trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính. Điều luật này đã trực tiếp quy định bảo vệ trẻ em khỏi hành vi tra tấn, cụ thể là quy định cho trẻ các quyền:
+ Bảo đảm quyền được bào chữa và tự bào chữa, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp;
+ Được trợ giúp pháp lý, được trình bày ý kiến, không bị tước quyền tự do trái pháp luật;
+ Không bị tra tấn, truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể, gây áp lực về tâm lý và các hình thức xâm hại khác.
Thứ ba, Luật trẻ em 2016 cũng đã quy định các biện pháp khá cụ thể và toàn diện nhằm bảo đảm thực hiện quyền trẻ em, bảo vệ trẻ em trước các hành vi xâm hại nói chung và bảo vệ trẻ em khỏi hành vi tra tấn nói riêng. Cụ thể là các biện pháp về nguồn lực, tài chính, nhân lực, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể…
+ Nguồn tài chính thực hiện quyền trẻ em bao gồm ngân sách nhà nước; ủng hộ của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong nước, nước ngoài; nguồn thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ; viện trợ quốc tế và các nguồn thu hợp pháp khác;
+ Nhà nước có giải pháp về nhân lực và bảo đảm Điều kiện cho việc thực hiện quyền trẻ em; phát triển mạng lưới người được giao làm công tác bảo vệ trẻ em các cấp, ưu tiên bố trí người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã và vận động nguồn lực để phát triển mạng lưới cộng tác viên bảo vệ trẻ em tại thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khóm;
+ Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, Mục tiêu quốc gia về trẻ em;
+ Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về trẻ em; truyền thông, phổ biến kiến thức, kỹ năng và vận động xã hội thực hiện quyền trẻ em;
+ Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người được giao làm công tác bảo vệ trẻ em, người chăm sóc trẻ em và mạng lưới cộng tác viên bảo vệ trẻ em thực hiện quyền của trẻ em...
+ Cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân có trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em; hỗ trợ, tạo Điều kiện để trẻ em thực hiện quyền và bổn phận của mình theo quy định của pháp luật; phối hợp, trao đổi thông tin trong quá trình thực hiện; Tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em trong quá trình thực hiện nhiệm vụ liên quan đến trẻ em...
Tóm lại, phân tích trên cho thấy, các quy định về bảo vệ quyền trẻ em trong Luật trẻ em 2016 hoàn toàn phù hợp, tương thích, đáp ứng các yêu cầu của Công ước Chống tra tấn[30]. Luật Trẻ em 2016 đã có các quy định nghiêm cấm các hành vi có tính chất “tra tấn” hoặc đối xử tàn bạo, vô nhân đạo đối với trẻ em, quy định quyền trẻ em khá cụ thể và toàn diện để đảm bảo bảo vệ trẻ em khỏi hành vi tra tấn hoặc đối xử tàn bạo, vô nhân đạo, quy định một số biện pháp để ngăn chặn các hành vi này. Ngoài ra, Luật còn dành riêng một điều để quy định quyền của trẻ em trong tố tụng và xử lí vi phạm hành chính nhằm chống tra tấn trẻ em./.
Điều 13 Công ước Chống tra tấn có quy định: “Mỗi quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng bất kỳ cá nhân nào cho rằng họ bị tra tấn trên lãnh thổ thuộc quyền tài phán của mình đều có quyền khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền của nước đó, và và được những cơ quan này xem xét một cách khẩn trương và khách quan….”
Để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại, tố cáo, Nhà nước ban hành các quy định về quyền của người khiếu nại, tố cáo và bảo vệ người khiếu nại, tố cáo, ghi nhận quyền và nghĩa vụ của họ; xác định trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tiếp nhận đơn, thư tố cáo và có biện pháp để bảo vệ người tố cáo; góp phần tích cực trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng; bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo hoặc làm hại người khác” (Điều 30);
Thứ hai, quyền khiếu nại, tố cáo được quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau đối với từng trường hợp cụ thể, chẳng hạn như Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật thi hành án hình sự (các Điều 4, 150 và Điều 154), Luật thi hành tạm giữ, tạm giam (các Điều 44, 56), Luật phòng, chống tham nhũng....
Thứ ba, để đảm bảo tốt hơn quyền khiếu nại, tố cáo, các văn bản quy phạm pháp luật cũng quy định các biện pháp để bảo vệ người khiếu nại, tố cáo khỏi sự đe dọa, trù dập, trả thù. Chẳng hạn như, Bộ luật tố tụng hình sự quy định nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo (Điều 32); quyền của người khiếu nại, tố cáo, trong đó có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ khi bị đe doạ, trù dập, trả thù (khoản 1 Điều 335).
Thứ tư, pháp luật quy định cụ thể về các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo. Chẳng hạn như, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra là “tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố” (Khoản 1 Điều 8); Luật Công an nhân dân năm 2014 quy định: “Nhà nước bảo vệ, giữ bí mật cho cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.” (Khoản 2 Điều 13)….
Thứ năm, các hành vi xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo, trả thù người khiếu nại, tố cáo đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Điều 166 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo.[31] So với quy định tại Điều 132 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Điều 166 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi theo hướng tiến bộ, cụ thể và nghiêm khắc hơn: (i) quy định cụ thể hơncấu thành của tội phạm; (ii) tăng hình phạt tù tối thiểu từ 03 tháng lên 06 tháng, tăng hình phạt tù tối đa từ 05 năm lên 07 năm; và (iii) bổ sung các hình thức định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Khoản 1 Điều 2 Luật khiếu nại năm 2011 quy định khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Để đảm bảo quyền khiếu nại của công dân, Điều 6 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định nghiêm cấm các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thực hiện các hành vi sau:
- Cản trở, gây phiền hà cho người thực hiện quyền khiếu nại; đe doạ, trả thù, trù dập người khiếu nại.
- Thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại; không giải quyết khiếu nại; làm sai lệch các thông tin, tài liệu, hồ sơ vụ việc khiếu nại; cố ý giải quyết khiếu nại trái pháp luật.
- Ra quyết định giải quyết khiếu nại không bằng hình thức quyết định.
- Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết khiếu nại.
Điều 4 Luật Khiếu nại năm 2011 còn quy định việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại phải được thực hiện theo quy định của pháp luật, bảo đảm khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời.
Theo mục 1 Chương 3 Luật Khiếu nại năm 2011, tùy thuộc vào tính chất, nội dung của khiếu nại, khiếu nại được giải quyết bởi: (i) Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; (ii) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện; (iii) Thủ trưởng cơ quan thuộc cấp sở và cấp tương dương; Giám đốc sở và cấp tương đương; (iv) Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh; (v) Thủ trưởng cơ quan thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ trưởng; (vi) Tổng thanh tra Chính phủ; (vii) Chánh thanh tra các cấp; và (viii) Thủ tướng Chính phủ.
Bên cạnh đó, mục 2, mục 3, mục 4 Chương 3 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại và thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.
Khoản 1 Điều 2 Luật tố cáo năm 2018 quy định tố cáo là việc cá nhân báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, gồm có:
(i) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức; người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ; người không còn là cán bộ, công chức, viên chức nhưng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian là cán bộ, công chức, viên chức; người không còn được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhưng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ; và cơ quan, tổ chức;
(ii) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào về việc chấp hành quy định của pháp luật, trừ hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
Luật Tố cáo năm 2018 quy định việc giải quyết tố cáo phải kịp thời, chính xác, khách quan, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn theo quy định của pháp luật; bảo đảm an toàn cho người tố cáo; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngời bị tố cáo trong quá trình giải quyết tố cáo (khoản 1 Điều 10). Khi tiếp nhận, giải quyết tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải có trách nhiệm tiếp người tố cáo, tiếp nhận và giải quyết tố cáo theo đúng quy định của pháp luật; xử lý nghiêm minh người vi phạm... Nếu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền này vi phạm thì phải bị xử lý nghiêm minh, trường hợp gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 5).
Bên cạnh đó, Điều 8 Luật Tố cáo năm 2018 còn nghiêm cấm người giải quyết tố cáo thực hiện các hành vi sau:
- Cản trở, gây khó khăn, phiền hà cho người tố cáo;
- Thiếu trách nhiệm, phân biệt đối xử trong việc giải quyết tố cáo;
- Tiết lộ họ tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và thông tin khác làm lộ danh tính của người tố cáo.
- Làm mất, làm sai lệch hồ sơ, tài liệu vụ việc tố cáo trong quá trình giải quyết tố cáo.
- Không giải quyết hoặc cố ý giải quyết tố cáo trái pháp luật; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong việc giải quyết tố cáo để thực hiện hành vi trái pháp luật, sách nhiễu, gây phiền hà cho người tố cáo, người bị tố cáo.
- Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm bảo vệ người tố cáo.
- Can thiệp trái pháp luật, cản trở việc giải quyết tố cáo.
- Đe dọa, mua chuộc, trả thù, trù dập, xúc phạm người tố cáo.
- Bao che người bị tố cáo;
- Cố ý tố cáo sai sự thật; cưỡng ép, lôi kéo, kích động, dụ dỗ, mua chuộc người khác tố cáo sai sự thật; sử dụng họ tên của người khác để tố cáo;
- Mua chuộc, hối lộ, đe dọa, trả thù, xúc phạm người giải quyết tố cáo.
- Lợi dụng quyền tố cáo để tuyên truyền chống Nhà nước, xâm phạm lợi ích của Nhà nước; gây rối an ninh, trật tự công cộng; xuyên tạc, vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.
- Đưa tin sai sự thật về việc tố cáo và giải quyết tố cáo.
Bên cạnh đó, điểm e khoản 1 Điều 9 Luật Tố cáo năm 2018 cũng quy định người tố cáo có quyền “đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo”.
Theo mục 1 Chương III và Điều 41 Luật tố cáo năm 2018, tùy thuộc vào tính chất, đối tượng bị tố cáo, thẩm quyền giải quyết tố cáo được giao cho các cá nhân có thẩm quyền khác nhau, chẳng hạn như Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã; Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện; người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Tổng cục trưởng, cục trưởng và cấp tương đương thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ được phân cấp quản lý cán bộ, công chức, viên chức bị tố cáo; Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan ngang Bộ; Thủ tướng Chính phủ; Chánh án tòa án nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh, cấp tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh và cấp tối cao…
Bên cạnh đó, Luật tố cáo năm 2018 quy định cụ thể về trình tự, thủ tiếp nhận, giải quyết tố cáo (các mục 2, 3 Chương III và Điều 42); trách nhiệm tổ chức thực hiện kết luận nội dung tố cáo (Chương V).
Đặc biệt, Luật tố cáo năm 2018 có một chương riêng (Chương VI) quy định về bảo vệ người tố cáo, trong đó quy định rõ về người được bảo vệ, phạm vi bảo vệ, quyền và nghĩa vụ của người được bảo vệ, cơ quan có trách nhiệm áp dụng biện pháp bảo vệ, trình tự, thủ tục bảo vệ.
Điều 14 Công ước Chống tra tấn quy định về quyền được bồi thường thiệt hại của các nạn nhân của hành vi tra tấn như sau:
“1. Mỗi quốc gia thành viên phải bảo đảm trong hệ thống pháp luật của mình rằng các nạn nhân của hành động tra tấn sẽ được cứu chữa và có quyền khả thi được bồi thường công bằng và thoả đáng, kể cả được cung cấp những điều kiện để phục hồi một cách đầy đủ đến mức có thể. Trường hợp nạn nhân chết do bị tra tấn, những người phụ thuộc vào người đó có quyền hưởng sự bồi thường.
2. Không một quy định nào trong điều này ảnh hưởng tới bất kỳ quyền được bồi thường nào của nạn nhân hay của người khác có thể có theo pháp luật quốc gia.”
Ở Việt Nam, bồi thường thiệt hại đã được ghi nhận đầu tiên trong Hiến pháp năm 1959, theo đó: “Người bị thiệt hại vì hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước có quyền được bồi thường”. Hiến pháp năm 1980 đã thừa nhận mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường. Hiến pháp năm 1992 tiếp tục mở rộng thêm khái niệm bồi thường, coi việc bồi thường bao gồm cả những thiệt hại về vật chất và tinh thần. Hiến pháp năm 2013 đã hoàn thiện hơn khi quy định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.” (Khoản 2 Điều 30); “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.” (Khoản 5 Điều 31).
Nhằm cụ thể hóa quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự của người bị thiệt hại theo Hiến pháp năm 2013, Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.” (Khoản 1 Điều 584). Bộ luật dân sự năm 2015 còn xác định thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể [32].
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 còn quy định cụ thể hơn các chủ thể được bồi thường bao gồm: người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giam, tạm giữ, khởi tố, điều tra, truy tố xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật[33].
Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước (sau đây gọi là Luật TNBTNN) năm 2017 được ban hành đã tiếp tục khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bồi thường cho người bị oan do người có thẩm quyền gây ra.
Ngoài Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2017, quy định về quyền được yêu cầu bồi thường và giải quyết bồi thường của người bị thiệt hại còn được quy định trong một số văn bản pháp luật khác như:
- Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 nghiêm cấm cản trở người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can thực hiện quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự (Khoản 3 Điều 14);
- Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định thẩm phán trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi thẩm pháp thực hiện nhiệm vụ xét xử có trách nhiệm bồi thường và thẩm phán đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho tòa án theo quy định (Khoản 6 Điều 76); Hội thẩm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Hội thẩm đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho tòa án theo quy định (Khoản 8 Điều 89);
- Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát nhân dân phải bồi thường, bồi hoàn thiệt hại gây ra khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật (Điều 59);
- Luật Công an nhân dân năm 2014 quy định sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công án nhân dân nếu vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại cho sức khỏe, tính mạng của người khác, tài sản hoặc lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường theo quy định (Điều 42);
- Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định người khiếu nại có quyền được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại theo quy định (Khoản 1 Điều 154);
- Nghị quyết số 96/2015/QH13 ngày 26/6/2015 của Quốc hội về tăng cường các biện pháp phòng, chống oan sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự, trong đó đã chỉ rõ khi đã xác định có oan, sai thi phải kịp thời minh oan cho người bị oan và bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định pháp luật; xử lý nghiêm minh đối với người mắc sai phạm, xem xét trách nhiệm hoàn trả đối với người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại theo Luật TNBTNN; xử lý trách nhiệm liên đới của người đứng đầu cơ quan gây nên oan, sai, để xảy ra bức cung, dùng nhục hình.
Như vậy, nội dung khái niệm bồi thường trong pháp luật Việt Nam cơ bản phù hợp với nội dung của pháp luật quốc tế về chống tra tấn. Các quy định này có thể áp dụng để bồi thường khi có nạn nhân của hành vi tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo. Tuy nhiên, để có cơ chế bảo hộ pháp lý hiệu quả hơn cho nạn nhân của hành vi tra tấn thì cần có sự điều chỉnh bổ sung thêm một số điều khoản riêng, cụ thể về bồi thường thiệt hại trong trường hợp bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo.
Ngày 20/6/2017, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Luật TNBTCNN), Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2018. Trong quá trình xây dựng Luật này, một trong những yêu cầu đề ra đó là bảo đảm tương thích với các điều ước, công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. So với Luật TNBTCNN năm 2009, Luật TNBTCNN năm 2017 có nhiều điểm mới quan trọng, trong đó, liên quan đến các quy định của Công ước chống tra tấn, có một số quy định như sau:
Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung 01 Điều (Điều 4) quy định về nguyên tắc bồi thường của Nhà nước. Về cơ bản, nguyên tắc bồi thường được kế thừa như quy định của luật hiện hành. Theo đó, việc giải quyết bồi thường được giải quyết tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại; được kết hợp giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Luật đã mở rộng nguyên tắc giải quyết bồi thường, quy định người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ngay ra tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự khi có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự; kết hợp giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự tại Tòa án đối với yêu cầu bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự (khoản 4 Điều 4). Người bị thiệt hại có quyền lựa chọn cơ chế giải quyết bồi thường phù hợp nhưng khi cơ quan giải quyết bồi thường đã thụ lý yêu cầu bồi thường thì người đó không được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền khác giải quyết bồi thường.
Theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2009, các trường hợp được bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự được quy định trên cơ sở bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 1992, Bộ luật HS năm 1999 và Bộ luật TTHS năm 2003, trong đó quy định các trường hợp được bồi thường chỉ là các trường hợp cá nhân bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự.
So với Luật TNBTCNN năm 2009, Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong các lĩnh vực để bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013, các bộ luật, luật hiện hành; đồng thời cũng bảo đảm quyền, lợi ích của công dân. Liên quan đến việc phòng, chống tra tấn, trong hoạt động tố tụng hình sự, Điều 18 Luật TNBTCNN năm 2017 có một số điểm mới so với quy định tại Luật TNBTNN năm 2009 như sau:
(i) bổ sung trường hợp được bồi thường do người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp (khoản 1);
(ii) bổ sung trường hợp được bồi thường do Pháp nhân thương mại bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án oan (khoản 9).
Luật TNBTNN năm 2017 quy định các loại thiệt hại được bồi thường phù hợp với yêu cầu tại Điều 14 Công ước chống tra tấn. Theo đó, Nhà nước sẽ bồi thường cho người bị thiệt hại về tài sản bị xâm phạm (Điều 23), thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút (Điều 24), thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết (Điều 25), thiệt hại về vật chất do sức khỏe bị xâm phạm (Điều 26), thiệt hại về tinh thần (Điều 27) và các chi phí khác như thuê phòng nghỉ, đi lại, in ấn tài liệu gửi đơn thư trong quá trình khiếu nại (Điều 28,… Đặc biệt, ngoài các thiệt hại được bồi thường như đã nêu trên, Luật TNBTNN năm 2017 còn ghi nhận việc khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp khác đối với người bị thiệt hại. Cụ thể, Khoản 1 và Khoản 2 Điều 29 của Luật quy định người bị thiệt hại là cá nhân được khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp, bao gồm:
(i) Khôi phục chức vụ (nếu có), việc làm và các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật có liên quan;
(ii) Khôi phục quyền học tập;
(iii) Khôi phục tư cách thành viên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Quy định này không chỉ thể hiện rõ quyền dân sự, chính trị của người bị thiệt hại mà còn bao gồm các quyền về kinh tế, xã hội như quyền được học tập, quyền được tham gia tổ chức xã hội.
Ngoài các quy định nêu trên, Luật TNBTCNN năm 2017 còn có các quy định khác thể hiện sự sự quan tâm và ghi nhận của Đảng và Nhà nước đối với việc bảo đảm, bồi thường cho những thiệt hại như quy định về việc phục hồi danh dự (Mục 3 Chương V). Quy định này nhằm đảm bảo hơn nữa quyền “không bị hạ thấp nhân phẩm”, xâm phạm các quyền và tự do của con người. Theo đó, người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự, công chức bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật, người bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc trái pháp luật thì được phục hồi danh dự. Cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại có trách nhiệm chủ động thực hiện việc phục hồi danh dự đối với người bị thiệt hại như đã nêu trên[34].
Bên cạnh đó, Luật TNBTNN cũng quy định rõ về trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường nhà nước; tạm ứng kinh phí bồi thường… để đảm bảo tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại thực hiện quyền được yêu cầu bồi thường, đồng thời việc giải quyết bồi thường được thực hiện nhanh chóng.
d) Về đối tượng được bồi thường
Trước hết, Điều 2 Luật TNBTNN năm 2017 quy định đối tượng được bồi thường, theo đó, cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần do người thi hành công vụ gây ra thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được quy định tại Luật TNBTNN năm 2017. Như vậy, Luật không phân biệt đối tượng là người Việt Nam hay người nước ngoài, cá nhân hay tổ chức, nam hay nữ…đối tượng đáp ứng đầy đủ các căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được quy định tại Điều 7 của Luật thì sẽ được bồi thường.
Để quy định về quyền được bồi thường của người bị thiệt hại, Luật TNBTNN năm 2017 đã liệt kê các trường hợp mà Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan trực tiếp đến các quyền nêu trên. Theo đó, Điều 18 của Luật quy định các trường hợp Nhà nước có trách nhiệm bồi thường bao gồm:
(i) Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp mà không có căn cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
(ii) Người bị bắt, người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự quyết định trả tự do, hủy bỏ quyết định tạm giữ, không phê chuẩn lệnh bắt, quyết định gia hạn tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
(iii) Người bị tạm giam mà có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;
(iv) Người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm;
(v) Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù mà có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;
(vi) Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt chung sau khi tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành;
(vii) Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm tội bị kết án tử hình và hình phạt chung sau khi tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội mà người đó phải chấp hành;
(viii) Người bị xét xử bằng nhiều bản án, Tòa án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đó mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành;
(ix) Pháp nhân thương mại bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi của pháp nhân không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được pháp nhân đã thực hiện tội phạm và pháp nhân đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
(x) Cá nhân, tổ chức có tài sản bị thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý, có tài khoản bị phong tỏa hoặc cá nhân, tổ chức khác có liên quan đến các trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 9 Điều 18 bị thiệt hại.
Bộ Thông Tin và Truyền thông